Danh mục

Thuyết minh về một Di Tích Lịch Sử Hồ Gươm - Bài làm 2

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 118.93 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cách đây khoảng 6 thế kỷ, hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ. Tương truyền vào thế kỷ 15 hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu 10 năm của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh đạo của Lê...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuyết minh về một Di Tích Lịch Sử "Hồ Gươm" - Bài làm 2 Thuyết minh về một Di Tích Lịch Sử Hồ Gươm - Bài làm 2 Cách đây khoảng 6 thế kỷ, hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào,qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nướchồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ. Tương truyền vào thế kỷ 15 hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền vớitruyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu 10năm của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh đạo củaLê Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hoá) có mòđược một lưỡi gươm, sau đó lại nhặt được một cái chuôi ở ruộng cày. Gươm báu nàyđã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Khi lên ngôi vềđóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, bỗngmột con rùa xuất hiện. Lê Thái Tổ rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay vềphía con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thuỷ có tên gọi mớilà hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm. Truyền thuyết Sách Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi chép: Khi ấy Nhà vua cùng người ở trại Mục sơn là Lê Thận cùng làm bạn keo sơn.Thận thường làm nghề quăng chài. Ở xứ vực Ma viện, đêm thấy đáy nước sáng nhưbó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng được gì cả. Chỉ được một mảnh sắt dàihơn một thước, đem về để vào chỗ tối. Một hôm Thận cúng giỗ (ngày chết của chamẹ), nhà vua tới chơi nhà. Thấy chỗ tối có ánh sáng, nhận ra mảnh sắt, nhà vua bènhỏi: - Sắt nào đây? Thận nói: - Đêm trước quăng chài bắt được. Nhà vua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay. Nhà vua đem về đánh sạch rỉ, màicho sáng, thấy nó có chữ Thuận Thiên, cùng chữ Lợi. Lại một hôm, nhà vua ra ngoài cửa, thấy một cái chuôi gươm đã mài-dũa thànhhình, nhà vua lạy trời khấn rằng: - Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chuôi và lưỡi liền nhau! Bèn lấy mảnh sắt lắp vào trong chuôi, thành ra một chiếc gươm hoàn chỉnh. Hồ Hoàn Kiếm với Tháp Rùa Tới hôm sau, lúc đêm, trời gió mưa, sớm ngàymai, hoàng hậu ra trông vười cải, bỗng thấy bốn vết chân của người lớn, rất rộng, rấtto. Hoàng hậu cả kinh, vào gọi nhà vua ra vườn, được quả ấn báu, lại có chữ ThuậnThiên (sau lấy chữ này làm niên hiệu) cùng chữ Lợi. Nhà vua thầm biết ấy là của trờicho, lòng lấy làm mừng, giấu giếm không nói ra. Truyền thuyết kể tiếp rằng, sau Lê Lợi dùng thanh gươm báu đó làm gươmchiến đấu, xông pha chém địch nhiều trận, cuối cùng đuổi được quân Minh làm vua Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền ra hồ Thủy Quân. Ragiữa hồ, có Rùa Vàng nổi lên mặt nước, chắn trước thuyền của vua gọi to: - Xin nhà vua hãy hoàn lại gươm thần cho Long Vương! Lê Thái Tổ rút gươm trả, rùa vàng ngậm lấy gươm lặn xuống nước đi mất. Từđó hồ Thủy Quân được đặt tên là hồ Hoàn Kiếm. Có thuyết khác nói khác về truyện trả gươm. Đại ý khi thuyền của vua ra giữahồ thì rùa vàng chắn trước. Vua Lê rút gươm chỉ vào Rùa Vàng, Rùa Vàng liền đớplấy gươm của vua mà bơi đi. Vua Lê sai tát cạn hồ Thủy Quân để tìm lại gươm báunhưng không thấy rùa đâu. Cũng vào thời Lê, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện của thuỷ quân nên cólúc được gọi là hồ Thuỷ Quân. Trên hồ có hai hòn đảo: Đảo Ngọc và Đảo Rùa. Cuối thế kỷ 16, nhà Trịnhdựng phủ Chúa ở phường Báo Thiên (nay là Nhà Thờ Lớn) và ở chỗ phố Thợ Nhuộmgần hồ nên đặt tên cho hai phần hồ là Hữu Vọng và Tả Vọng. Sau đó Trịnh Doanh chođắp ở bờ hồ, chỗ đối diện với đảo Ngọc, một gò đất có tên là gò Ngọc Bội, còn trênđảo Rùa thì cho dựng dinh Tả Vọng. Khi Trịnh suy, Lê Chiêu Thống cho đốt phá tấtcả những gì do họ Trịnh dựng lên. Đến đầu thế kỷ 19, người ta dựng một ngôi chùatrên đảo Ngọc gọi là chùa Ngọc Sơn. Ít lâu sau chùa này không thờ Phật mà thờ thánhVăn Xương và Trần Hưng Đạo, do đó đổi chùa thành đền, tức đền Ngọc Sơn ngàynay. Năm 1864, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đã đứng ra sửa sang lại cảnh đền. Trên gòNgọc Bội ông cho xây một ngọn tháp hình bút. Đó là tháp Bút ngày nay. Tuy không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, song hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền vớicuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khuphố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóabản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn thế, hồ gắn với huyền sử, là biểu tượng khátkhao hòa bình (trả gươm cầm bút), đức văn tài võ trị của dân tộc (thanh kiếm thiêngnơi đáy hồ và tháp bút viết lên trời xanh). Do vậy, nhiều văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnhHồ Gươm làm nền tảng cho các tác phẩm của mình. ...

Tài liệu được xem nhiều: