Danh mục

Thuyết tương đối rộng: Quá khứ, hiện tại và tương lai

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 117.21 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lí thuyết tương đối rộng của Albert Einstein là một trong những thành tựu đỉnh cao của nền vật lí thế kỉ 20. Công bố vào năm 1916, nó giải thích cái chúng ta cảm nhận là lực hấp dẫn thực ra phát sinh từ sự cong của không gian và thời gian.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuyết tương đối rộng: Quá khứ, hiện tại và tương lai Thuyết tương đối rộng: Quá khứ, hiện tại và tương lai Lí thuyết tương đối rộng của Albert Einstein là một trong những thành tựuđỉnh cao của nền vật lí thế kỉ 20. Công bố vào năm 1916, nó giải thích cái chúng tacảm nhận là lực hấp dẫn thực ra phát sinh từ sự cong của không gian và thời gian. Einstein đề xuất rằng các vật thể như mặt trời và trái đất làm thay đổi dạnghình học này. Trong sự có mặt của vật chất và năng lượng, nó có thể tiến triển, kéocăng ra và cuộn lại, hình thành nên các gợn, đỉnh và hõm, làm cho các vật đangchuyển động qua nó bị zig zag và cong đi. Cho nên, mặc dù trái đất bị hút về phíamặt trời bởi lực hấp dẫn, nhưng không có lực nào như vậy cả. Nó đơn giản là hìnhdạng của không-thời gian xung quanh mặt trời cho trái đất biết phải đi theo hướngnào mà thôi. Lí thuyết tương đối rộng có các hệ quả sâu rộng. Nó không chỉ giải thíchchuyển động của các hành tinh; mà nó còn mô tả lịch sử và sự giãn nở của vũ trụ,cơ sở vật lí của các lỗ đen và sự cong của ánh sáng phát ra từ những ngôi sao vàthiên hà xa xôi. Thuyết tương đối rộng: trí tuệ xuất chúng của Einstein Năm 1905, ở tuổi 26, Albert Einstein đề xuất lí thuyết tương đối đặc biệt. Líthuyết trên dung hòa cơ sở vật lí của các vật đang chuyển động do galileo Galilei vàNewton phát triển với các định luật của bức xạ điện từ. Nó thừa nhận rằng tốc độcủa ánh sáng luôn luôn không đổi, bất kể chuyển động của người đo nó như thếnào. Thuyết tương đối đặc biệt cho rằng không gian và thời gian hòa quyện vớinhau đến một mức độ trước đó chưa bao giờ người ta tưởng tượng ra. Sang năm 1907, Einstein bắt đầu thử mở rộng thuyết tương đối đặc biệt đểbao hàm cả sự hấp dẫn. Đột phá đầu tiên của ông xuất hiện khi ông đang làm việctại một phòng cấp bằng sáng chế ở Bern, Thụy Sĩ. “Bất ngờ một ý tưởng nảy đếnvới tôi”, ông nhớ lại. “Nếu như một người rơi tự do, anh ta sẽ không cảm nhận thấysức nặng của mình... Thí nghiệm tưởng tượng đơn giản này... đã đưa tới đến líthuyết của sự hấp dẫn”. Ông nhận ra rằng có một mối liên hệ sâu sắc giữa các hệ bịảnh hưởng bởi sự hấp dẫn và các hệ đang gia tốc. Đang rơi tự do sẽ không cảm nhận trọng lượng ? (Ảnh: Matt King/Getty) Bước phát triển lớn tiếp theo xuất hiện khi Einstein được giới thiệu cơ sởhình học phát triển bởi các nhà toán học Đức thế kỉ thứ 19, Carl Friedrich Gauss vàBernhard Riemann. Einstein áp dụng công trình của họ để viết nên các phươngtrình liên hệ hình học của không-thời gian với lượng năng lượng mà nó chứa. Ngàynay được gọi là các phương trình trường Einstein, và công bố vào năm 1916,chúng thay thế cho định luật vạn vật hấp dẫn của Newton và vẫn sử dụng cho đếnngày nay, sau gần một thế kỉ. Sử dụng thuyết tương đối rộng, Einstein đã đưa ra một loạt dự đoán. Thí dụ,ông chỉ ra lí thuyết của ông sẽ dẫn đến sự trôi giạt quan sát thấy của quỹ đạo Thủytinh như thế nào. Ông còn tiên đoán rằng một vật khối lượng lớn, như mặt trời, sẽlàm méo hành trình của ánh sáng đi qua gần nó: tóm lại, hình dạng của không giansẽ tác dụng như một thấu kính và làm tập trung ánh sáng. Einstein còn cho rằng bước sóng của ánh sáng phát ra ở gần một vật thể khốilượng lớn sẽ bị kéo căng ra, hay lệch đỏ, khi nó trèo ra khỏi không-thời gian bịcuộn lại ở gần vật thể nặng đó. Những tiên đoán này ngày nay được gọi là ba phépkiểm tra cổ điển của thuyết tương đối rộng. Mô hình Chuẩn của vũ trụ Theo Mô hình Chuẩn, cái đã được các nhà vật lí chắp ghép trong hơn 70 nămqua, vũ trụ được tin là cấu tạo từ vật chất (4% nguyên tử và 20% “vật chất tối”chúng ta không thể quan sát hoặc giải thích) và năng lượng (76% “năng lượng tối”). Mô hình Chuẩn của ngành vật lí hạt cơ: AAAS Xem thêm: Các lực trong tự nhiên  Mô hình Chuẩn giải thích phương thức 17 hạt hạ nguyên tử liên kết với nhauđể tạo ra các nguyên tử và sau đó là vật chất bởi ba trong số bốn lực cơ bản của tựnhiên: lực hạt nhân mạnh, lực hạt nhân yếu, và lực điện từ. Nó ngoại trừ lực thứ tư:lực hấp dẫn. Các hạt ấy chia làm hai loại: boson, hạt truyền lực, và fermion, hạt cấu tạonên vật chất. Fermion gồm có 6 dạng quark và 6 dạng lepton. Mỗi lepton có một neutrinotương ứng (một hạt mang năng lượng có khối lượng rất thấp và vận tốc cao) và tấtcả những hạt này còn có các phiên bản phản vật chất, chúng hành xử theo kiểugiống với vật chất, nhưng phân hủy khi tiếp xúc với vật chất, biến khối lượng củahai hạt thành năng lượng thuần túy. Gần như toàn bộ vật chất được hình thành bởi hai loại quark: quark lên (up)và quark xuống (down) – và một loại lepton: electron. Bốn quark còn lại (đỉnh,duyên, lạ và đáy) và năm lepton (neutrino electron, muon, neutrino muon, tau vàneutrino tau) đơn giản là những phiên bản lớn hơn của ba loại hạt cơ bản đó. Các boson chia làm bốn loại, chúng ...

Tài liệu được xem nhiều: