Thông tin tài liệu:
Với tiền sản giật nặng, đôi khi bác sĩ phải cho đo huyết áp với khoảng cách
ngắn hơn nhiều (5 – 30 phút).
Tiền sản giật là tình trạng cao huyết áp do thai kỳ đi kèm với đạm
niệu. Tiền sản giật thường xảy ra sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ và biến mất hoàn toàn sau sanh. Tuy nhiên, tiền sản giật có thể xuất hiện sớm hơn, trước tuần thứ 20 của thai kỳ, trong những trường hợp đa thai và thai trứng.
...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiền sản giật - nguy cơ của nhiều thai phụ
Tiền sản giật - nguy cơ của nhiều thai phụ
Với tiền sản giật nặng, đôi
khi bác sĩ phải cho đo
huyết áp với khoảng cách
ngắn hơn nhiều (5 – 30 Tiền sản giật là tình
phút). trạng cao huyết áp do
thai kỳ đi kèm với đạm
niệu. Tiền sản giật thường xảy ra sau tuần lễ thứ
20 của thai kỳ và biến mất hoàn toàn sau sanh.
Tuy nhiên, tiền sản giật có thể xuất hiện sớm hơn,
trước tuần thứ 20 của thai kỳ, trong những
trường hợp đa thai và thai trứng.
- Diễn tiến của tiền sản giật thường lũy tiến, tuy nhiên
đôi khi cũng thấy bệnh tự phục hồi hoặc diễn tiến
từng đợt. Nói chung, tiền sản giật xảy ra trước tuần
thứ 28 thường diễn tiến nặng hơn là các rối loạn xảy
ra sau tuổi thai này.
- Tiền sản giật thường gặp ở con so, nhất là dưới 20
tuổi và trên 40 tuổi. Tuy nhiên, xuất độ này thay đổi
theo môi trường sống (tình trạng kinh tế xã hội kém),
ảnh hưởng di truyền (chị em gái, con gái, cháu gái).
Có sự tương quan giữa trọng lượng của mẹ (béo phì)
và nguy cơ bị tiền sản giật. Đa thai tỷ lệ tiền sản giật
tăng (song thai tỷ lệ tiền sản giật là 13% trong khi đơn
thai là 5%).
Nguy cơ tiền sản giật cũng tăng ở phụ nữ bị tiểu
đường, thai trứng, có bệnh lý mạch máu từ trước…
- Tiền sản giật là nguyên nhân chính gây tử vong mẹ,
tử vong thai nhi, thai chậm phát triển trong tử cung.
Nếu thai sống cũng có thể chậm phát triển tâm thần
sau này.
Nguyên nhân và sinh bệnh học:
* Nguyên nhân gây nên tiền sản giật chưa được biết
chính xác. Các yếu tố sau có thể góp phần trong sự
xuất hiện của tiền sản giật:
- Yếu tố miễn nhiễm - di truyền.
- Yếu tố dinh dưỡng.
- Rối loạn chức năng nội tiết.
- Biểu hiện nhiễm độc.
- Thay đổi về huyết động học.
- Phản xạ dãn tử cung gây nên sự thiếu máu tử cung
- nhau.
Tiến trình sinh lý bệnh của tiền sản giật có thể đã bắt
đầu từ 3 – 4 tháng trước khi bắt đầu có sự gia tăng
huyết áp quan sát được trên lâm sàng. Các yếu tố
làm cơ sở để giải thích sinh bệnh học của tiền sản
giật là:
- Sự thiếu máu tử cung - nhau làm hoạt hóa hệ thống
rénine - angiotensine của tử cung.
- Có sự mất quân bình giữa hai loại Prostaglandine
do nhau sinh ra là prostacycline và thromboxane.
- Sự không có hoặc giảm nồng độ NO có thể đóng
một vai trò trong bệnh nguyên của tiền sản giật.
- Endotheline trong máu cao hơn ở phụ nữ bị tiền sản
giật.
- Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) gia
tăng cùng với sự gia tăng của kháng lực mạch máu
tử cung nhau ở phụ nữ bị tiền sản giật.
- Những sang thương nội mô và co thắt mạch máu
toàn thân trong tiền sản giật dẫn đến những thay đổi
cơ quan đáng kể bao gồm những tổn thương không
hồi phục của hệ thần kinh trung ương, thận và gan:
+ Hệ thần kinh trung ương: phù não mô kẽ với vi xuất
huyết dạng tử ban có thể gây rối loạn thị giác (sợ ánh
sáng, nhìn đôi, ám điểm) và nhức đầu.
Những tổn thương não chủ yếu sau khi khám nghiệm
tử thi là: phù, sung huyết, thiếu máu khu trú, huyết
khối và xuất huyết.
+ Thay đổi đáy mắt: phản ánh mức độ lan rộng co
thắt tiểu động mạch (soi đáy mắt có thể cho thấy
những thay đổi cấp tính và mãn tính).
+ Thận: tổn thương nội mô cầu thận đưa đến đạm
niệu không chọn lọc và sự phá vỡ chức năng ống
thận. Bài tiết acid uric, calci, kallikrein bị giảm. Acid
uric trong máu tăng.
Sự phá vỡ nặng nề chức năng thận được chứng
minh bởi tăng mức kallikrein và urea trong huyết
tương cũng như bởi thiểu niệu hay vô niệu. Những
thay đổi điển hình cho tiền sản giật như giảm thể tích
huyết tương với cô đặc máu tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của suy thận cấp và kết quả là cần
phải chạy thận nhân tạo.
+ Gan: trong tiền sản giật nặng, xét nghiệm chức
năng gan có thể thay đổi, nồng độ SGOT, SGPT tăng
cao, có thể tăng Bilirubin trong máu nhưng ít gặp
hơn.
Tổn thương giải phẫu bệnh thường gặp nhất là hoại
tử xuất huyết quanh khoảng cửa ở ngoại vi tiểu thuỳ
gan. Những tổn thương này hiếm khi lan rộng nhưng
sự chảy máu từ những tổn thương này có thể gây vỡ
gan hoặc hình thành bướu máu dưới bao gan.
(trường hợp xuất huyết gan, tỷ lệ tử vong khoảng
30%, cần được can thiệp phẫu thuật ngay lập tức để
có thể cứu sống người bệnh).
+ Hình thành phù: báng bụng, tràn dịch màng phổi,
màng tim do tăng tính thấm thành mạch và giảm áp
lực thấm keo.
+ Tổn thương phổi: phụ nữ bị tiền sản giật tử vong
thường luôn có phù phổi và viêm phổi xuất huyết lan
rộng.
+ Tim mạch: hậu tải gia tăng do cao huyết áp, tiền tải
cũng bị ảnh hưởng nhiều. Ở giai đoạn tiền lâm sàng
thì phụ nữ bị tiền sản giật có sự gia tăng cung lượng
tim đáng kể nhưng kháng lực ngoại biên thì bình
thường. Khi có biểu hiện thì cung lượng tim giảm
đáng kể và gia tăng kháng lực ngoại biên.
Phụ nữ bị tiền sản giật tử vong có xuất huyết dưới nội
tâm mạc, huyết khối và hoại tử.
+ Thay đổi đông máu: tiền sản giật đi kèm với tăng
tính đông máu trong 5 – 10% người bệnh. Giảm tiểu
cầu do tiêu thụ tiểu cầu tại các mạch máu tận cùng.
Đông đặc huyết tư ...