Danh mục

Tiểu luận: Chế định trách nhiệm dân sự trong pháp luật phong kiến Việt Nam

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 195.75 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,500 VND Tải xuống file đầy đủ (11 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

.Bộ Quốc triều hình luật là sự kết tinh và đỉnh cao của những thành tựu lập pháp thế kỷ XV-XVIII, là bộ luật tiêu biểu nhất trong lịch sử pháp luật phong kiến Việt Nam. Bộ Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Cách thức phân chia các quyển, mục căn cứ vào thẩm quyền chức năng của Lục bộ. Cấu trúc này gần giống bộ Đại Thanh Luật lệ. So với Quốc triều hình luật triều Lê, Hoàng Việt Luật lệ mang tính khái quát cao hơn, Việc chia quyển đã bước đầu có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Chế định trách nhiệm dân sự trong pháp luật phong kiến Việt Nam TIỂU LUẬNCHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN VIỆT NAM 1 Bộ Quốc triều hình luật là sự kết tinh và đỉnh cao của những thành tựu lập pháp thế kỷ XV-XVIII, là bộ luật tiêu biểu nhất trong lịch sử pháp luật phong kiến Việt Nam. Bộ Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Cáchthức phân chia các quyển, mục căn cứ vào thẩm quyền chức năng của Lụcbộ. Cấu trúc này gần giống bộ Đại Thanh Luật lệ. So với Quốc triều hình luật triều Lê, Hoàng Việt Luật lệ mang tínhkhái quát cao hơn, Việc chia quyển đã bước đầu có sự phân ngành, tạo điềukiện thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật. Các chế định về trách nhiệmdân sự pháp luật thời Lê (Quốc triều Hình luật) và pháp luật thời nhàNguyễn (Hoàng Việt luật lệ) được quy định sơ sài và tản mạn. Các quy địnhnày không phân biệt rõ trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự. Chế tàihình sự được quy định trước hết nhằm trừng phạt kẻ nào đã xâm phạm vàotài sản hoặc nhân thân của người khác, ngoài hình phạt kẻ phạm tội cònphải bồi thường cho nạn nhân về thiệt hại xảy ra. Sở dĩ có sự phân biệt rõ giữa hình luật và dân luật trong Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ, trước hết nó được ban hành là nhằm phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị, để duy trì và bảo vệ sự tồn tại của nền quân chủ, không chú trọng vào việc quy định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo Trung Hoa, giai cấp thống trị phong kiến muốn tái thiết trên lãnh thổ Việt Nam một nền pháp luật hướng theo Nho giáo. Theo tư tưởng này, trong xã hội mọi người đều hành động như hiền nhân quân tử, giữa họ không thể có những tranh chấp về quyền lợi. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho chế định trách nhiệm dân sự quy định rất tản mạn và không đầy đủ trong Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ. Nói đến trách nhiệm dân sự trong Quốc triều hình luật chúng ta cầnxem xét hai vấn đề, đó là các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự vàtrách nhiệm bồi thường dân sự. 2 Trước hết, về các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự. Yếu tốđầu tiên phải kể đến đó là hành vi tội phạm luật. Với bất kỳ hành vi vi phạmpháp luật nào cũng liên quan đến trách nhiệm dân sự kể cả vi phạm về tự doý chí của con người. Điều 384 và điều 385 Quốc triều hình luật đã đề cậpđến sự tự do ý chí. Tại điều 384 quy định “Những ruộng đất cầm mà chủruộng đất xin chuộc, người cầm không cho chuộc, hay là không muốnchuộc mà bắt phải chuộc mà bắt phải chuộc thì đều phải phạt 80 trượng.Nếu quá hạn mà chủ ruộng đất cố đòi chuộc, thì chủ ruộng cũng phải phạ ttrượng như thế mà không cho chuộc. (Kỳ hạn ruộng mùa là ngày 15 tháng3, ruộng chiêm là ngày 15 tháng 9). Nếu trong hạn đã đem tiền đến chuộcvà đã được quan xử cho chuộc, mà chủ cầm cố tình lần khân không chochuộc, để cho quá kỳ hạn,thì phạt 80 trượng, bắt phải cho chuộc, và phải lạitrả tiền lãi những ngày để lần khân. Nếu qua niên hạn mà xin chuộc thìkhông được (niên hạn là 30 năm). Nếu người bán trái lý còn kêu lên quanđể đòi chuộc thì xử phạt 50 roi, biếm một tư”. Điều 385 quy định về việcnếu giả người để tranh giành ruộng đất thì cũng phải chịu hình phạt biếm vàtrượng “Tranh giành ruộng đất mà đưa người giả làm người thân thuộctrong họ ra làm chứng, thì xử phạt 50 roi, biếm một tư; cố ý không theo lệnhđã xử mà cứ tranh, thì xử phạt 60 trượng, biếm hai tư và phải phạt tiền tạ 30quan”. Như vậy, Quốc triều hình luật đã bảo vệ lợi ích của người dân, bảođảm sự tự do về ý chí cũng như quy định chặt chẽ trách nhiệm của nhữngngười vi phạm. Yếu tố thứ hai là vấn đề lỗi. Mặc dù không sử dụng đến những thuậtngữ pháp lý hiện đại như lỗi cố ý và lỗi vô ý, nhưng các nhà làm luật đã đềcập đến vấn đề này trong Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ.Nghiên cứu các điều luật quy định về trách nhiệm dân sự trong hai bộ luật,chúng ta nhận thấy lỗi có thể của chính bản thân của người gây thiệt hạihoặc do người thứ ba. *Lỗi do chính bản thân của người gây thiệt hại 3 Khi một người có hành vi xâm phạm tài sản hoặc nhân thân củangười khác gây ra thiệt hại, thì người đó phải chịu trách nhiệm bồi thườngtuỳ theo lỗi của người gây thiệt hại. Lỗi cố ý thường coi như có tính nghiêmtrọng, nên tiền bồi thường thường tăng gấp đôi, thậm chí đôi khi còn tănggấp ba... Ví dụ: trong Quốc triều Hình luật, Điều 435 “...lột lấy những quầnáo và đồ vật của trẻ con, người điên, người say, thì phải tội đồ và phải bồithường gấp đôi”. Điều 437 “quan giám lâm, người coi kho mà tự lấy trộmthì xử như tội ăn trộm thường và phải bồi thường tang vật gấp hai lần”.Điều 445 “bắt trộm cá ở đầm ao, thì... phải bồi thường gấp đôi...”. Điều 448“những người cầm cố cho người ta mà lấy trộm văn tự cầm, ...

Tài liệu được xem nhiều: