Danh mục

Tiểu luận đề tài Interferon và bệnh do virus

Số trang: 20      Loại file: pdf      Dung lượng: 406.87 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vào thế kỷ thứ 19, người ta bắt đầu khám phá rằng những bịnh gây kinh hoàng cho nhân loại thời đó là do những sinh vật cực nhỏ, lớn chừng vài phần ngàn millimet (micron), chỉ nhìn được qua kính hiển vi, đó là những vi trùng hay vi khuẩn (bacteria). Ví dụ bịnh nhiễm trùng ngoài da gây nhọt mủ do vi trùng hình tròn tụ lại một chùm như chùm nho (staphylococcus)...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận đề tài Interferon và bệnh do virus Trường ĐH Nông Lâm TP HCM Bộ môn công nghệ sinh học -oOo- TIỂU LUẬNINTERFERON VÀ BỆNH DO VIRUS Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Ngọc Hải Sinh viên thực hiện : Hoàng Lê Ngọc Bích Lớp: DH06SH MSSV : 06126010 1Đặt vấn đề Vào thế kỷ thứ 19, người ta bắt đầu khám phá rằng những bịnh gây kinh hoàngcho nhân loại thời đó là do những sinh vật cực nhỏ, lớn chừng vài phần ngànmillimet (micron), chỉ nhìn được qua kính hiển vi, đó là những vi trùng hay vikhuẩn (bacteria). Ví dụ bịnh nhiễm trùng ngoài da gây nhọt mủ do vi trùng hìnhtròn tụ lại một chùm như chùm nho (staphylococcus), bịnh lao (tuberculosis) donhững vitrùng hình cái que (bacillus), bịnh giang mai (syphilis) do những vi trùnghình xoắn Treponema gây ra. Những vi trùng này thường được cấy (cultured) trênnhững môi trường nhân tạo (artificial media) để nghiên cứu những đặc tính của nó.Nói chung mỗI vi khuẩn là một tế bào sống riêng rẽ, nhỏ hơn tế bào cơ thể chúngta gắp trăm lần, nên có thể ùa vào tấn công tế bào chúng ta và thải những chất độc(toxin) làm nguy hại cơ thể chúng ta. Mỗi vi trùng có những bộ di thể (genome)làm bằng DNA hoặc RNA (deoxyribonucleic acid hoặc ribonucleic acid là nhữngnucleic acid tựa như chất tạo thành của nhiễm thể/chromosome trong tế bào chúngta). DNA hoặc RNA chứa những dữ kiện di truyền điều khiển tổng hợp (synthesis)các protein tạo dựng nên vi khuẩn và do đó vi khuẩn có thể tự mình sinh sôi nẩynở (replication). Qua thế kỷ thứ 20, những thuốc trụ sinh (hoặc kháng sinh ) như làsulfamide và penicillin được khám phá có khả năng giết chết (bactericidal) hoặcngăn chận sự sinh sản (bacteriostatic) của các vi khuẩn. Những bịnh vi khuẩn nhưbịnh giang mai (syphilis), bịnh lậu (gonorrhea), bịnh lao, bịnh sung phổi(pneumonia)... được chữa trị hiệu quả và nhanh chóng.Trong một thờI gian khá lâuy khoa say sưa trong giấc mơ làm chủ các bịnh truyền nhiễm với những trụ sinhmới mẽ và càng ngày càng mạnh (và càng đắt tiền) được tung ra trên thị trường. Sau đó thì người ta khám phá, ngoài những vi khuẩn quan sát đươc trên kínhhiển vi, còn có những sinh vật gây bịnh nhỏ hơn hàng ngàn lần, lớn nhỏ tính bằngnanometer (một phần triệu của millimet), phải nhờ đến kính hiển vi điện tử(electron microscope, không xài ánh sáng thường mà xài những tia điện tử) mớIthấy được. Những sinh vật này là những virus; một số tài liệu tiếng Việt gọi là siêuvi trùng, siêu vi khuẩn, hoặc phiên âm là virut (virus do tiếng la tinh có nghĩa là‘’thuốc độc’’). Một số bịnh thông thường như bịnh cúm (influenza), cảm cúm(common cold), bịnh ban đỏ (measles), bịnh trái rạ (chicken pox) là do virus gâyra. Cơ cấu virus đơn giản hơn vi khuẩn thường, chỉ gồm một vỏ protein bọc và chechỡ một cái lõi DNA hoặc RNA (nucleic acid). Cái lõi này là nơi chứa những gene(gien, di thể) điều khiển tổng hợp những protein mớI cần cho sự sinh sản củavirus. Tuy nhiên vì không thể tự nó tổng hợp protein cho chính mình, virus cầnsống ký sinh trong một tế bào (cell) và dùng ‘’ké’’ những phương tiện của tế bàonày thì mới sinh sản được. Những virus rất khó trị bằng trụ sinh. Hiên nay sốthuốc trụ sinh trị virus (antiviral antibiotic) còn hiếm; ví dụ các trường hợp trái rạ(chicken pox) nặng được chữa sớm bằng acyclovir thì có thể mau bớt hơn. Ngược 2lại, trụ sinh chỉ làm bịnh virus HIV (gây ra AIDS hoặc SIDA) chậm lại và chưa cóthuốc trụ sinh nào trị dứt được. Chữ virus có xuất xứ cũng từ chữ virus trong tiếng Latinh để chỉ chất độc(theo từ điển Websters ). Chính vì vậy mà tiếng Hán ngày nay gọi nó là bệnh độc.Các tên gọi siêu vi khuẩn và siêu vi trùng có nguồn gốc từ sự tồn tại ở mức độsiêu vi thể (ultramicroscopic) của nó.Ngày nay bên cạnh nghĩa sinh học như trên, virus còn được dùng theo nghĩa ẩndụ để chỉ các những gì sinh sản kí sinh, như virus máy tính.Từng hạt virus được gọi là virion hay viron.I.1 Đặc điểm của virus Virus là những tác nhân gây nhiễm trùng có kích thước nhỏ nhất (đường kính20-300 nm)và trong bộ gen của chúng chỉ chứa một loại acid nucleic (RNA hoặcDNA). Acid nucleic được bao bọc trong lớp vỏ protein và bên ngoài cùng có thểđược bao quanh một màng lipid. Toàn bộ phân tử virus được gọi là virion. Virus bị bất hoạt trong môi trường ngoại bào, chúng chỉ nhân lên trong các tếbào sống. Acid nucleic của virus chứa các thông tin cần thiết để lập trình cho tếbào ký chủ bị nhiễm bằng tổng hợp các đại phân tử đặc hiệu cần cho sự nhân lêncủa virus. Trong chu kỳ tăng trưởng, một số lượng lớn bản sao các acid nucleiccủa virus và protein vỏ (coat protein) được tạo thành. Các protein vỏ được tập hợplại để tạo vỏ bao (capsid), vỏ bao này bao bọc acid nucleic giúp virus bền vữngchống lại môi trường ngoại bào và ...

Tài liệu được xem nhiều: