Danh mục

Tiểu luận: Giới thiệu công ước viên vê tội diệt chủng 1951

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 427.16 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Công ước định nghĩa diệt chủng là: giết thành viên của nhóm, gây tổn hại nghiêm trọng cho cơ thể hoặc tinh thần cho các thành viên trong nhóm. Công ước xác định các tội phạm có thể bị trừng phạt theo quy ước: diệt chủng; âm mưu phạm tội diệt chủng
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận:Giới thiệu công ước viên vê tội diệt chủng 1951 Tiểu luậnGiới thiệu công ước viên vê tội diệt chủng 1951 Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội diệt chủng đã được thông qua bởi Đại hội đồng LHQ vào ngày 09/12/1948 và có hiệu lực 12/01/1951 gồm 19 điều khoản. Công ước định nghĩa diệt chủng là: giết thành viên của nhóm, gây tổn hại nghiêm trọng cho cơ thể hoặc tinh thần cho các thành viên trong nhóm. Công ước xác định các tội phạm có thể bị trừng phạt theo quy ước: diệt chủng; âm mưu phạm tội diệt chủng; chỉ đạo, kích động công chúng để phạm tội diệt chủng; cố ý phạm tội diệt chủng; đồng lõa trong vụ diệt chủng. Tội diệt chủng bao gồm các hành vi: tiêu diệt toàn bộ hoặc một phần, một nhóm quốc gia, dân tộc, chủng tộc hay tôn giáo, bao gồm: a, giết hại thành viên của nhóm người trên. b, gây tổn hại nghiêm trọng đến thể xác hoặc tinh thần cho các thành viên của nhóm. c, cố ý đặt nhóm người vào điều kiện sống nhằm dẫn đến sự tổn hại về thể xác một cách hoàn toàn hoặc một phần. d, thực hiện các biện pháp nhằm ngăn sự sinh sôi trong nhóm. e, dùng vũ lực để chuyển giao trẻ em nhóm cho nhóm khác. II. Hoàn cảnh tư vấn tòa án: có nhiều quốc gia phản đối việc bảo lưu công ước vể tội diệt chủng, việc bảo lưu điều ước đang được Đại hội đồng xem xét, đồng thời Tổng thư ký đã gửi thư đến tòa án quốc tế để hỏi ý kiến tư vấn của tòa án về việc bảo lưu đối với công ước về tội diệt chủng. trong kỳ họp thứ V của đại hội đồng , đặc biệt là ở ủy ban thứ VI của đại hội đồng có rất nhiều ý kiến khác nhau về bảo lưu giữa các bên - ủy ban pháp luật đã yêu cầu tòa án quốc tế đưa ra ý kiến tư vấn. Căn cứ vào những điều khoản được quy định trong công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, trong đó có điều 9, tòa án công lý quốc tế có thẩm quyền đưa ra ý kiến tư vấn trong trường hợp này. Phiên tòa diễn ra vào ngày 28/5/1951.Tòa đã tư vấn theo 3 vấn đề sau: 1. Liệu quốc gia bảo lưu có thể được xem là thành viên của công ước trong khi vẫn tiếp tục duy trì bảo lưu mặc dù bảo lưu đó đã bị 1 hoặc nhiều quốc gia khác phản đối?  Một nước đã đưa ra và duy trì thực hiện việc bảo lưu mà bị phản đối bởi một hoặc nhiều nước của công ước nhưng không phải là tất cả các bên, sẽ được coi là một bên của Công ước nếu sự bảo lưu phù hợp với đối tượng và mục đích của Công ước; nếu không, nước đó sẽ không được coi là một bên công ước. Lập luận của Tòa: Trong quan hệ điều ước, quốc gia không thể bị ràng buộc nếuquốc gia đó không chấp thuận sự ràng buộc, và vì vậy bảo lưu sẽ không có hiệu lực đối vớibất kì quốc gia nào phản đối bảo lưu. Một công ước đa phương được xem là kết quả củaviệc tự do kí kết dựa trên các điều khoản và kéo theo đó, không một thành viên nào cóquyền ngăn cản và phá huỷ mục đích và lí do tồn tại của công ước bởi những quyết địnhđơn phương và thoả thuận đặc biệt. Nguyên tắc này liên quan đến sự toàn vẹn của côngước đã được thông qua, khái niệm truyền thống của quan điểm này cho rằng bảo lưu sẽ vôgiá trị nếu nó không được tất cả các bên kí kết chấp thuận trừ trường hợp đặc biệt khi điềunày được nêu rõ trong quá trình đàm phán. Khái niệm đồng thuận liên quan đến tính toàn vẹn của công ước là một nguyên tắcbất di bất dịch. Nhưng CƯ diệt chủng đề cập đến những tình huống khác nhau đòi hỏi phảicó sự áp dụng linh hoạt nguyên tắc này. Điều 11 của CƯ này cho phép tất cả các quốc giatham gia vào CƯ này ( Điều 11). Chính việc mở rộng sự tham gia của các nước theo điều11 đã làm tăng tính linh hoạt trong thực tiễn quốc tế liên quan đến các ĐƯ đa phương.Ngày càng có nhiều các biện pháp chung hơn cho vấn đề bảo lưu ví dụ như thoả thuậnngầm. Thực tế cho thấy còn có nhiều vấn đề ngoài dự tính ví dụ: nước đưa ra bảo lưu bịphản đối bởi một số các thành viên khác vẫn được xem là thành viên của CƯ trong mốiquan hệ với các thành viên chấp thuận bảo lưu. Chính những yếu tố này đã khẳng định sựcần thiết về tính linh hoạt trong việc thực hiện ĐƯ đa phương. Cũng cần phải nói rõ rằng mặc dù cuối cùng CƯ về tội diệt chủng cũng được nhấttrí thông qua, nhưng nó vẫn là kết quả của nhiều lần bỏ phiếu đa số. Nguyên tắc đa số vừathúc đẩy việc kí kết các CƯ đa phương và là rất cần thiết đối với một vài quốc gia trongviệc đưa ra bảo lưu của mình. Điều này được thể hiện bởi hàng loạt bảo lưu được đưa ratrong những năm gần đây đối với các CƯ đa phương. Trong CƯ đa phương mà không có một điều khoản nào cho phép việc bảo lưu thìkhông có nghĩa là các quốc gia khi tham gia kí kết CƯ không được bảo lưu. Trên thực tế, việc không có điều khoản nào như trên được giải thích là không muốncó quá nhiều bảo lưu trong ĐƯ. Và một quốc gia bất kỳ có thể đưa ra bảo lưu của mìnhtrong quá trình kí kết hoặc phê chuẩn ĐƯ. Toà án đã công nhận thoả thuận được thông quabởi Đại Hội Đồng về vấn đề đưa ra bảo lưu trong CƯ diệ ...

Tài liệu được xem nhiều: