Danh mục

Tiểu luận: Lạm phát ở Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp

Số trang: 41      Loại file: pdf      Dung lượng: 437.33 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Phí tải xuống: 20,500 VND Tải xuống file đầy đủ (41 trang) 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chống lạm phát được thực hiện ở nhiều các quốc gia trên thế giới. Càng ngày cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhân của lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Mời các bạn cùng tham khảo.


Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Lạm phát ở Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp Tiểu luận Lạm phát ở Việt Nam,nguyên nhân và giải pháp LỜI NÓI ĐẦU Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giớivà ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò củanó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế vàchống lạm phát được thực hiện ở nhiều các quốc gia trên thế giới. Càng ngàycùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhâncủa lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thịtrường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhànước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện phápchống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đấtnước. 1 CHƯƠNG I LẠM PHÁT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNGI. CÁC LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT Khi phân tích lưu thông tiền giấy theo chế độ bản vị vàng, Mác đãkhẳng định một qui luật:’’việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở sốlượng vàng thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình’’, với quiluật này, khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu thông vượtquá mức giới hạn số lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì giá trị của tiềngiấy sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiên. Có thể xem đây như làmột định nghĩa của Mác về lạm phát. Song có những vấn đề cần phân tích cụthể hơn. Tiền giấy ở nước ta cũng như ở tất cả các nước khác hịên đều khôngtheo chế độ bản vị vàng nữa, do vậy người ta có thể phát hành tiền theo nhucầu chi của nhà nước, chứ không theo khối lượng vàng mà đồng tiền đạidiện. Điều đó hoàn toàn khác với thời Mác. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện nhiều lý thuyết khácnhau vế lạm phát. Trong số các dó có các lý thuyết chủ yếu là: Lý thuyết cầu do nhà kinh tế Anh nổi tiếng John Keynes đề xướng. Ôngđã qui nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động cung cầu. Khi mứccung đã đạt đến tột đỉnh vượt quá mức cầu, dẫn đến đình đốn sản suất, thìnhà nước cần phải tung thêm tiền vào lưu thông, tăng các khoản chi nhànước, tăng tín dụng, nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung vàvượt cung. Khi đó đã xuất hiên lạm phát, và lạm phát ở đây có tác dụng thúcđẩy sản xuất phát triển. Vậy là trong điều kiện nền kinh tế phát triển có hiệuquả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mớinhanh và đúng hướng thì lạm phát đã là một công cụ để tăng trưởng kinh tế,chống suy thoái. Thực tế củat các nền kinh tế thị trường trong thời kỳ sau 2chiền tranh thế giới thứ hai đã chứng tỏ điều đó. Nhưng khi nền kinh tế đãrơi vào thời kỳ phát triển kém hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng chậmchạp, cơ cấu kinh tế được đổi mới theo các hướng không đúng hay trì trệ, thiếtbị kỹ thuật cũ tồn đọng đầy ứ. v. v... thì lạm phát theo lý thuyết cầu đã khôngcòn là công cụ tăng trưởng kinh tế nữa. Lý thuyết chi phí cho rằng lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phísản xuất, kinh doanh đã nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăngchi phì này chủ yếu là do tiền lương được tăng lên, giá các nguyên nhiên vậtliệu tăng, công nghệ cũ kỹ không được đổi mới, thể chế quản lý lạc hậukhông giảm được chi phí... Đặc biệt là trong những năm 70 do giá dầu mỏtăng cao, đã làm cho lạm phát gia tăng ở nhiều nước. Vậy là chi phí tăng đếnmức mà mức tăng năng suất lao động xã hội đã không bù đắp được mức tăngchi phí khiến cho giá cả tăng cao lạm phát xuất hiện. ở đây suy thoái kinh tếđã đi liền với lạm phát. Do đo, các giải pháp chống lạm phát không thểkhông gắn liền với các giải pháp chống suy thoái. Kể từ cuối những năm 60nền kinh tế thế giới đã rơi vào thời kỳ suy thoái với nghĩa là tốc độ tăngtrưởng bị chậm lại, kể từ đó vai trò là công cụ tăng trưởng của lạm phát đãkhông còn nữa. Lý thuyết cơ cấu được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Theo lýthuyết này thì lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơcấu cơ của nền kinh tế mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa côngnghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa sảnxuất và dịch vụ... Chính sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế đã làm cho nềnkinh té phát triển không có hiệu quả, khuyến khích các lĩnh vực đòi hỏi chiphí tăng cao phát triển. Và xét về mặt này lý thuyết cơ cấu trùng hợp với lýthuyết chi phí Cũng có thể kể ra các lý thuyết khác nữa như lý thuyết tạo lỗ trống lạmphát lý thuyết số lượng tiền tệ... song dù có khác nhau về cách lý giải nhưng 3hầu như tất cả các lý thuyết đều thừa nhận: lạm phát chỉ xuất hiện khi mứcgiá cả chung tăng lên, do đó làm cho giá tri của đồng tiền giảm xuống. Địnhnghĩa này có một điển chung là hiện tượng giá cả chung tăng lên và giá trịđồng tiền giảm xuống. Tốc độ lạm phát được xác định bởi tốc độ thay đổimức giá cả.II. CÁC LOẠI LẠM PHÁT Căn cứ vào tốc độ lạm phát người ta chia ra làm ba loại lạm phát khác nhau. 1. Lạm phát vừa phải xảy ra khi giá cả tăng chậm ở mức một con số haydưới 10% một năm. Hiện ở phần lớn các nước TBCN phát triển đang có lạmphát vừa phải. Trong điều kiên lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thườngxấp xỉ bằng mức tăng tiền lương, hoặc cao hơn một chút do vậy đồng tiền bịmất giá không lớn, điều kiện kinh doanh tương đối ở định tác hại của lạmphát ở đây là không đáng kể. 2. Lạm phát phi mã xảy ra khi giả cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc bacon số như 20%, 100% hoặc 200%... một năm. Khi lạm phát phi mã đã hìnhthành vững chắc, thì các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số giáhoặc theo hợp đồng ngoại tệ mạnh nào đó và do vậy đã gây phức tạp choviệc tính toán hiệu quả của các nhà kinh doanh, lãi suất thực tế giảm tới mứcâm, thị trường tài chính tàn lụi, dân chúng thi nhau tích ...

Tài liệu được xem nhiều: