Đám cưới là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân. Nhưng từ xa xưa cho đến ngày nay có một dân tộc ở vùng Tây Bắc vẫn còn đang hiện hữu một tục cưới rất đặc biệt đó là văn hóa dân tộc H’Mông.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Lễ hội tục “kéo vợ” của người H’MôngTiểu luận: Lễ hội tục “kéo vợ” của người H’Mông A. PHẦN MỞ ĐẦU Đám cưới là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo r ộng rãivề sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân. Nhưng từxa xưa cho đến ngày nay có một dân tộc ở vùng Tây Bắc vẫn còn đang hiện hữumột tục cưới rất đặc biệt đó là văn hóa dân tộc H’Mông.Và dưới đây là ph ầntìm hiểu của tôi về tục kéo vợ của người H’Mông - nét văn hóa độc đáo cònđược lưu giữ lại cho đến ngày nay. Hôn nhân của người H’Mông theo tập quán tự do kén chọn b ạn đ ời. Nh ữngngười cùng dòng họ không lấy nhau. Người Mông có tục háy pù, tức là trongtrường hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh t ế khó khăn, trai gáihò hẹn nhau tại một địa điểm. Từ địa điểm đó bạn trai dắt tay bạn gái về làmvợ. Vợ chồng người H’Mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùnglàm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè... Người H’Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung t ổtiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cu ộcsống, cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành mộtcụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Các đặc trưng riêng vớimỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượngvà cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quànngười chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí m ộ...Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổicác đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt nhữngngười cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc.Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe. Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coinhư đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khiđi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Tháng giêng, khi những rừng mơ nở trắng, báo hiệu mùa cưới lung linh s ắcmàu thổ cẩm rộn lên khắp các bản làng Tây B ắc và Ðông B ắc cũng r ộn lên.Người Mông có tục kéo con gái về làm vợ (Cướp vợ). Khi người con trai quen biết một người con gái và muốn cô gái đó làm vợ họsẽ đi kéo cô gái về nhà. Để kéo được cô gái về nhà, người con trai ph ải chiêuSVTH: Hồ Nguyễn Quỳnh Châu – SP2A Trang 1Tiểu luận: Lễ hội tục “kéo vợ” của người H’Môngđãi, mời rượu một số người bạn cùng lứa tuổi để họ đi kéo giúp. Chàng trai vàbạn bè của anh có thể tìm cô gái ở chợ, ở đêm ch ơi trăng hay lúc đi làm n ương.Khi đã kéo được cô gái về nhà, chàng trai lại phải mời rượu bạn để cảm ơn.Chàng trai sẽ phải nhờ chị gái của mình (hoặc em gái) để trông không cho cô gáitrốn khỏi nhà mình. Chị gái của chàng trai sẽ có mặt bên cô gái đ ược kéo v ềsuốt cả ba ngày đêm. Phong tục chính là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội c ủa con ng ười,được mọi người công nhận và làm theo. Có những phong tục mang tính cổ hủ,song có phong tục tô đẹp bản sắc văn hóa người dân Việt Nam. Tục cướp vợ được coi là chế độ lược hôn. Tục này rất phổ biến ở các vùngTây - Ðông Bắc. ở vùng Tây Bắc giáp biên giới nước Lào, tục cướp vợ có sắcthái biểu cảm thật trữ tình. Vào một đêm trăng thanh, chàng trai mi ền núi vácchiếc thang tựa cửa nhà người yêu, rồi thổi một điệu kèn môi tình tứ bằng chiếclá. Âm điệu du dương khiến lòng cô gái thổn thức, xốn xang. Nàng bắt đầu hécửa sổ thì chàng lập tức ghé thang lên, trèo vào và cõng nàng ch ạy vào r ừng. H ọở bên nhau 3 ngày, rồi trở về nhà bố mẹ vợ, xin phép cưới. Ở vùng tiếp giáp biên giới Trung Quốc, tục cướp vợ mang tính mạnh mẽ,quyết liệt hơn. Chàng trai đi chợ, bắt gặp một cô gái xinh đ ẹp. Chàng li ền quayvề, rủ một số bạn trai thân tình, mượn nh ững con ngựa th ật kho ẻ. H ọ hùngdũng ra chợ, chàng đi sát bên cô gái, bất ngờ bế th ốc cô gái lên ng ựa r ồi phinước kiệu. Nếu chàng và nàng đã có tình ý từ trước thì chàng đặt tay trái về phíacô, cô đặt tay trái lên rồi đạp chân trái của mình lên mô bàn chân cứng cáp củachàng, theo đà lên ngựa. Họ sống với nhau từ 2 đến 7 ngày. Sau đó, chàng đưanàng về nhà vợ hỏi cưới. Trong khi đó, tục cướp vợ của người Kinh mang tính chất cộng đồng, làngxóm. Cụ thể, một số làng thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội thườngtổ chức tục cướp vợ rất đặc biệt (ngày nay không còn). Vào dịp lễ xướng, dânlàng chọn một cô gái xinh đẹp, dịu dàng, chăm chỉ và một chàng trai kh ỏe mạnh,chịu khó. Cô gái ra làng ở, nằm mộng 7 ngày 7 đêm. Chàng trai nấp dưới b ụikhoai nước bờ ao. Khi lễ hội được diễn ra, cô gái cất tiếng hát: “Tao có chiếc yếm lưỡi cày Chẳng để cho mày thì để cho ai” Tiếng hát vừa dứt chàng trai vọt lên bờ vác cô gái chạy đi, theo sau là ti ếnghò reo, đuổi, ném đất dẻo, bắn cung bằng thân dâu của dân làng. Nếu chàng đ ưaSVTH: Hồ ...