Tiểu luận: Lịch sử hình thành khối NATO
Số trang: 20
Loại file: pdf
Dung lượng: 419.68 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Chiến tranh lạnh ra đời như một “di sản vĩ đại” của chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế, thời kì mà mỗi quốc gia đều nuôi dưỡng những khao khát, mong muốn riêng của mình.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận:Lịch sử hình thành khối NATO Tiểu luận Lịch sử hình thành khối NATO 1 LỜI MỞ ĐẦU Chiến tranh lạnh ra đời như một “di sản vĩ đại” của chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế, thời kì mà mỗi quốc gia đều nuôi dưỡng những khao khát, mong muốn riêng của mình. Duy chỉ một điểm chung mà quốc gia nào cũng mong muốn đó là sự bền vững và phát triển của mình trong một lớp vỏ bọc dày dặn được che chở bởi đồng minh của mình. Vì thế các khối quân sự ra đời như một đòi hỏi cấp thiết để đáp ứng những tham vọng trong lòng những đế quốc già cũng như các nước tư bản chủ nghĩa khác. Không nằm ngoài số đó, việc “Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)” ra đời như một sự hiển nhiên phải thế. NATO là một tổ chức tập đoàn quân sự đa quốc gia phương Tây, ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm mục đích giúp Mỹ ngăn chặn Liên Xô, bảo vệ địa vị chủ đạo của mình ở các nước Châu Âu. Cùng với những biến động đột ngột ở Đông Âu, sự biến mất của khối Varsazawa mà ngược lại, nó càng phát triển mạnh mẽ, số lượng các nước thành viên được tăng thêm, phạm vi thế lực được bành trướng một cách rõ rệt. Đúng như một học giả nổi tiếng người Đức về các vấn đề quốc tế Các Caixơ đã chỉ ra: ”Trong tất cả, những sắp xếp quốc tế chủ yếu của thời kỳ chiến tranh lạnh, không có sự biến đổi nào lại sâu sắc và mạnh mẽ như Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương”. I. Nguyên nhân ra đời và mục đích hoạt động của cơ chế NATO. 1. Nguyên nhân ra đời: 1.1 Bối cảnh quốc tế: Chiến tranh lạnh kết thúc, sự nghiệp chung chống phát xít Đức, Ý, Nhật đã trở thành chất keo dính để duy trì đồng minh trong thời chiến của 2 một số nước lớn đã bắt đầu từng bước mất đi tạo điều kiện cho xung đột và đối kháng giữa các nước. trước chiến tranh, các nước lớn như Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Mỹ, Liên Xô cùng tồn tại, sức lực ngang nhau, so sánh lực lượng quốc tế đã có sự thay đổi căn bản của nó là “hai cực hóa” Xô-Mỹ. Với thực lực và kinh tế hùng mạnh, sau chiến tranh, Mỹ vượt lên chiếm vị trí bá chủ trong thế giới chủ nghĩa tư bản. Liên Xô phải chịu thiệt hại nặng nề sau chiến tranh, nhưng đang từng bước tang cường sức mạnh và ảnh hưởng chính trị trên trường quốc tế. Ở Đông Âu đã xuất hiện một loạt các nước XHCN, những nước này ủng hộ chính sách đối ngoại của Liên Xô và là vùng đệm quan trọng cho Liên Xô trong việc chống lại thế lực phương Tây. Liên Xô đã trở thành một trung tâm sức mạnh khác trên thế giới. Tháng 8-1945, Tổng thống Mỹ Truman ra lệnh ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Nhật Bản là Hirôshima và Nagasaki, hoàn toàn không xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ đánh bại phát xít Nhật, vì không có hai quả bom đó thì Hồng quân Liên Xô cũng đã đánh bại đội quân Quan Đông mạnh nhất của phát xít Nhật, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Viện cớ giả tạo đánh phát xít Nhật, Mỹ quyết định sử dụng bom nguyên tử, trước hết để đe doạ Liên Xô và các lực lượng cách mạng thế giới trong hoạch định sức mạnh, quyền lợi và ảnh hưởng của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Hành động đó của Mỹ báo hiệu mọt kỷ nguyên mới trong quan hệ quốc tế - kỷ nguyên dùng sức mạnh của vũ khí hạt nhân để giải quyết mâu thuẫn giữa các nước trên quy mô toàn cầu. Chẳng bao lâu sau, với nỗ lực phi thường, Liên Xô cũng làm chủ được công nghệ chế tạo bom nguyên tử và phá bỏ thế độc quyền của Mỹ. Núp dưới ô hạt nhân, thế giới phân chia thành hai cực, thực chất là hai hệ thống chính trị đối đầu về ý thức hệ. Ở châu Âu hình thành hai khối quân 3 sự lớn nhất và mạnh nhất hành tinh đối đầu nhau với bản chất trái ngược nhau: khối NATO - công cụ xâm lược và quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và khối Vácsava, trụ cột chủ yếu của hoà bình thế giới. 1.2 . Lợi ích quốc gia: Các nước phương Tây như Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Lucxambua với mục đích bảo vệ lợi ích đế quốc của mình bằng những hoạt động quân sự tập thể. Nhưng với vị trí kinh tế và quân sự của mình, các nước không thể đóng vai trò chỉ đạo trong việc lập khối quân sự lớn như thế được và vai trò này chỉ Mỹ mới có thể đảm nhận. Đối với Mỹ, an ninh chính trị và quân sự là bộ phận cấu thành quan trọng trong lợi ích quốc gia. Nó bao gồm: tránh sự bùng nổ của một cuộc chiến tranh thế giới mới nguy hại đến sự tồn vong của nước Mỹ, đảm bảo cho thế giới phương Tây không bị uy hiếp về chính trị cũng như quân sự từ phương Đông. Đó là một mặt mang tính phòng ngự và duy trì hiện trạng. Mặt khác, trong lợi ích quốc gia, Mỹ còn có tính đến tiến công và bành trướng, nghĩa là sự mở rộng ảnh hưởng và thế lực của nó trên toàn thế giới, giữ vai trò chủ đạo trên vũ đài chính trị quốc tế. Sáng lập Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới là con bài chủ đạo trên vũ đài kinh tế, chính trị quốc tế sau chiến tranh. Thêm vai trò chỉ đạo khối quân sự lớn nhất phương Tây, Mỹ ngày càng có điều kiện thực hiện mưu đồ của mình, lợi dụng các điều khoản của Hiệp ước, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước hội viên, có thể dùng tổ chức này để phục vụ cho lợi ích của đế quốc Mỹ, ngăn chặn được Liên Xô- sự uy hiếp lớn nhất đối với an ninh phương Tây và đóng vai trò chủ đạo của thế giới. 4 Mỹ theo đuổi mục tiêu sử dụng quân đội và lãnh thổ các nước thành viên phục vụ lợi ích riêng của mình, biến Tây Âu thành bàn đạp tiến hành các hoạt động xâm lược. Đồng thời, Mỹ cũng sử dụng khối này để củng cố sự hiện diện về kinh tế, chính trị, quân sự của họ ở Tây Âu. Các nước NATO ở Tây Âu chuẩn bị chiến tranh xâm lược trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, tư tưởng, tiến hành cuộc chạy đua vũ trang mạnh mẽ chưa từng có. Họ đã bỏ ra chi phí khổng lồ để xây dựng cơ sở hạ tầng quân dụ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận:Lịch sử hình thành khối NATO Tiểu luận Lịch sử hình thành khối NATO 1 LỜI MỞ ĐẦU Chiến tranh lạnh ra đời như một “di sản vĩ đại” của chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế, thời kì mà mỗi quốc gia đều nuôi dưỡng những khao khát, mong muốn riêng của mình. Duy chỉ một điểm chung mà quốc gia nào cũng mong muốn đó là sự bền vững và phát triển của mình trong một lớp vỏ bọc dày dặn được che chở bởi đồng minh của mình. Vì thế các khối quân sự ra đời như một đòi hỏi cấp thiết để đáp ứng những tham vọng trong lòng những đế quốc già cũng như các nước tư bản chủ nghĩa khác. Không nằm ngoài số đó, việc “Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)” ra đời như một sự hiển nhiên phải thế. NATO là một tổ chức tập đoàn quân sự đa quốc gia phương Tây, ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm mục đích giúp Mỹ ngăn chặn Liên Xô, bảo vệ địa vị chủ đạo của mình ở các nước Châu Âu. Cùng với những biến động đột ngột ở Đông Âu, sự biến mất của khối Varsazawa mà ngược lại, nó càng phát triển mạnh mẽ, số lượng các nước thành viên được tăng thêm, phạm vi thế lực được bành trướng một cách rõ rệt. Đúng như một học giả nổi tiếng người Đức về các vấn đề quốc tế Các Caixơ đã chỉ ra: ”Trong tất cả, những sắp xếp quốc tế chủ yếu của thời kỳ chiến tranh lạnh, không có sự biến đổi nào lại sâu sắc và mạnh mẽ như Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương”. I. Nguyên nhân ra đời và mục đích hoạt động của cơ chế NATO. 1. Nguyên nhân ra đời: 1.1 Bối cảnh quốc tế: Chiến tranh lạnh kết thúc, sự nghiệp chung chống phát xít Đức, Ý, Nhật đã trở thành chất keo dính để duy trì đồng minh trong thời chiến của 2 một số nước lớn đã bắt đầu từng bước mất đi tạo điều kiện cho xung đột và đối kháng giữa các nước. trước chiến tranh, các nước lớn như Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Mỹ, Liên Xô cùng tồn tại, sức lực ngang nhau, so sánh lực lượng quốc tế đã có sự thay đổi căn bản của nó là “hai cực hóa” Xô-Mỹ. Với thực lực và kinh tế hùng mạnh, sau chiến tranh, Mỹ vượt lên chiếm vị trí bá chủ trong thế giới chủ nghĩa tư bản. Liên Xô phải chịu thiệt hại nặng nề sau chiến tranh, nhưng đang từng bước tang cường sức mạnh và ảnh hưởng chính trị trên trường quốc tế. Ở Đông Âu đã xuất hiện một loạt các nước XHCN, những nước này ủng hộ chính sách đối ngoại của Liên Xô và là vùng đệm quan trọng cho Liên Xô trong việc chống lại thế lực phương Tây. Liên Xô đã trở thành một trung tâm sức mạnh khác trên thế giới. Tháng 8-1945, Tổng thống Mỹ Truman ra lệnh ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Nhật Bản là Hirôshima và Nagasaki, hoàn toàn không xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ đánh bại phát xít Nhật, vì không có hai quả bom đó thì Hồng quân Liên Xô cũng đã đánh bại đội quân Quan Đông mạnh nhất của phát xít Nhật, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Viện cớ giả tạo đánh phát xít Nhật, Mỹ quyết định sử dụng bom nguyên tử, trước hết để đe doạ Liên Xô và các lực lượng cách mạng thế giới trong hoạch định sức mạnh, quyền lợi và ảnh hưởng của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Hành động đó của Mỹ báo hiệu mọt kỷ nguyên mới trong quan hệ quốc tế - kỷ nguyên dùng sức mạnh của vũ khí hạt nhân để giải quyết mâu thuẫn giữa các nước trên quy mô toàn cầu. Chẳng bao lâu sau, với nỗ lực phi thường, Liên Xô cũng làm chủ được công nghệ chế tạo bom nguyên tử và phá bỏ thế độc quyền của Mỹ. Núp dưới ô hạt nhân, thế giới phân chia thành hai cực, thực chất là hai hệ thống chính trị đối đầu về ý thức hệ. Ở châu Âu hình thành hai khối quân 3 sự lớn nhất và mạnh nhất hành tinh đối đầu nhau với bản chất trái ngược nhau: khối NATO - công cụ xâm lược và quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và khối Vácsava, trụ cột chủ yếu của hoà bình thế giới. 1.2 . Lợi ích quốc gia: Các nước phương Tây như Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Lucxambua với mục đích bảo vệ lợi ích đế quốc của mình bằng những hoạt động quân sự tập thể. Nhưng với vị trí kinh tế và quân sự của mình, các nước không thể đóng vai trò chỉ đạo trong việc lập khối quân sự lớn như thế được và vai trò này chỉ Mỹ mới có thể đảm nhận. Đối với Mỹ, an ninh chính trị và quân sự là bộ phận cấu thành quan trọng trong lợi ích quốc gia. Nó bao gồm: tránh sự bùng nổ của một cuộc chiến tranh thế giới mới nguy hại đến sự tồn vong của nước Mỹ, đảm bảo cho thế giới phương Tây không bị uy hiếp về chính trị cũng như quân sự từ phương Đông. Đó là một mặt mang tính phòng ngự và duy trì hiện trạng. Mặt khác, trong lợi ích quốc gia, Mỹ còn có tính đến tiến công và bành trướng, nghĩa là sự mở rộng ảnh hưởng và thế lực của nó trên toàn thế giới, giữ vai trò chủ đạo trên vũ đài chính trị quốc tế. Sáng lập Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới là con bài chủ đạo trên vũ đài kinh tế, chính trị quốc tế sau chiến tranh. Thêm vai trò chỉ đạo khối quân sự lớn nhất phương Tây, Mỹ ngày càng có điều kiện thực hiện mưu đồ của mình, lợi dụng các điều khoản của Hiệp ước, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước hội viên, có thể dùng tổ chức này để phục vụ cho lợi ích của đế quốc Mỹ, ngăn chặn được Liên Xô- sự uy hiếp lớn nhất đối với an ninh phương Tây và đóng vai trò chủ đạo của thế giới. 4 Mỹ theo đuổi mục tiêu sử dụng quân đội và lãnh thổ các nước thành viên phục vụ lợi ích riêng của mình, biến Tây Âu thành bàn đạp tiến hành các hoạt động xâm lược. Đồng thời, Mỹ cũng sử dụng khối này để củng cố sự hiện diện về kinh tế, chính trị, quân sự của họ ở Tây Âu. Các nước NATO ở Tây Âu chuẩn bị chiến tranh xâm lược trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, tư tưởng, tiến hành cuộc chạy đua vũ trang mạnh mẽ chưa từng có. Họ đã bỏ ra chi phí khổng lồ để xây dựng cơ sở hạ tầng quân dụ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Lịch sử hình thành khối NATO Vai trò khối NATO Lịch sử khối NATO Tiểu luận chính sách đối ngoại Đối ngoại Việt Nam Kinh tế đối ngoại Kinh tế quốc tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
97 trang 326 0 0
-
23 trang 205 0 0
-
22 trang 199 1 0
-
97 trang 161 0 0
-
Tài liệu học tập Quản trị kinh doanh quốc tế: Phần 1
82 trang 160 0 0 -
Xuất nhập khẩu của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
13 trang 140 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học vĩ mô - Trường ĐH Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
17 trang 134 0 0 -
108 trang 130 0 0
-
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -EU
7 trang 116 0 0 -
Giáo trình môn Kinh tế quốc tế - Đỗ Đức Bình
282 trang 111 0 0