Danh mục

Tiểu luận Liên minh công nông trí ở Việt Nam

Số trang: 18      Loại file: doc      Dung lượng: 168.00 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng CNXH và công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ nhưng đã đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng và vẻ vang. Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng là liên minh công – nông – trí thức tạo nên sức mạnh vô địch, là bản lĩnh, trí tuệ và sự dũng cảm phi thường của con người Việt Nam. Với một quá khứ hào hùng, oanh liệt của liên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận " Liên minh công ­nông ­trí ở Việt Nam " Tiểu luận: Liên minh công­nông­trí ở Việt Nam  A/ LỜI MỞ ĐẦU Sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng CNXH và công cuộc đổi mới dưới  sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ nhưng đã đạt  được những thành tựu to lớn, rất quan trọng và vẻ vang. Một trong những nhân tố quyết định thắng  lợi của Cách mạng là liên minh công – nông – trí thức tạo nên sức mạnh vô địch, là bản lĩnh, trí  tuệ và sự dũng cảm phi thường của con người Việt Nam. Với một quá khứ hào hùng, oanh liệt của liên minh các tầng lớp giai cấp công – nông – trí với  những con người anh hùng đã góp mình vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Vậy giờ đây  một con người thuộc cái tầng lớp, giai cấp này họ đang phài sống trong thực trạng như thế nào  trong xã hội của nước ta hiện nay? Tôi xin nói rõ vấn đề này và phương hướng cơ bản để xây dựng một liên minh công – nông – trí  vững mạnh để xây dựng đưa nước ta phát triển thành một nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa  trên con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.  B/ LIÊN MINH GIAI CẤP CÔNG NÔNG TRI THỨC TRONG XàHỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY І. Thực trạng giai cấp công­ nông­ tri thức trong xã hội nước ta hiện nay 1. Giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân nước ta hiện nay có khoảng 4,53 triệu người, chiếm 6% dân số. Về cơ cấu  thành phần kinh tế, công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước từ chỗ là đại diện cho toàn bộ  giai cấp công nhân trongthời kỳ trước đổi mới nay chỉ giữ một số lượng và tỷ lệ thấp hơn (1,83  triệu, chiếm 40,8%) so với công nhân của khu vực ngoài nhà nước (2,68 triệu chiếm 59,2%). Tỷ lệ  công nhân nhà nước tỷ lệ nghịch với tốc độ và quy mô đổi mới doanh nghiệp nhà nước đang diễn  ra mạnh mẽ trong mấy năm gần đây dưới sức ép của nhu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh và  năng lực cạnh tranh của kinh tế quốc tế. Hậu quả tất yếu nhưng không mong muốn của tiến trình  này là hiện có hơn 150000 người vốn là công nhân nhà nước, nay thuộc diện dư dôi, thất nghiệp.  Cơ cấu thành phần cuả công nhân hiện nay rất phức tạp, có những người vừa làm cho Nhà nước  vừa làm cho tư nhân hoặc mang danh là công nhân nhưng lại sống bằng nghề phụ, kinh tế hộ cá  thể. Về cơ cấu ngành nghề, giai cấp công nhân nước ta thường làm việc trong những ngành công  nghiệp truyền thống: luyện kim, cơ khí, điện. Trong thời kỳ đổi mới, công nhân làm trong các  ngành dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện, viễn thông, ngân hàng...) đã tăng lên nhanh cùng với  tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú ý là đã xuất hiện một bộ phận mới dù  chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công nhân tri thức, những người có tri thức vàkỹ năng cao, tạo ra những sản  phẩm dịch vụ có hàm lượng giá trịtăng cao như tư vấn, thiết kế, quản lý chất lượng đồng bộ. Số  công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm trên 150000 người (khoảng 3,3%). Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh cùng với mức độ phát triển của  kinh tế tri thức ở nước ta. Chính sự đa dạng, phức tạp về nguồn gốc, cơ cấu, sự không đồng nhất  về chất lượng và sự phân hoá, phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân trong  các ngành nghề và thành phần kinh tế, đã làm suy yếu tính thống nhất, sức mạnh đoàn kết và địa  vị xã hội của giai cấp công nhân hiện nay so với thời kỳ trước đổi mới. Tuy vậy, sự xuất hiện và  ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng của bộ phận công nhân tri thức ở nước ta hiện nay  là một trong những yếu tố cơ bản tiếp tục đảm bảo cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân  Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay. Về kinh tế, ngoài bộ phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao, bộ phận công nhân trong các  doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực có tính độc quyền, có mức thu nhập khá, còn lại phần  lớn công nhân nước ta có mức thu nhập rất thấp. Về chính trị và uy tín xã hội, công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp tri thức, tầng lớp công chức,  viên chức. Ngay trong các doanh nghiệp nhà nước, quyền lực và vai trò của công nhân còn bị hạn  chế. Trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức Đảng và  các tổ chức quần chúng thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động , công nhân thường bị giới chủ chèn  ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu tranh với các ông chủ dù chỉ nhằm bảo vệ quyền  lợi chính đáng của mình. Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân nhưng lại bị thiệt thòi hơn so  với nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Do bộ phận công nhân nhà nước thường phải làm thêm nghề  phụ để tăng thu nhập nên tác phong công nghệp chưa cao. Công nhân trong khu vực kinh tế tư  nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có kỷ luật cao hơn song thường phải tăng ca, làm thêm  giờ để kiếm sống nên ít có thời gian và điều kiện để học tập, phát triển bản thân. Ý thức giai cấp, ý  thức Đảng trong bộ phận công nhân này nói chung thấp. Công nhân tri thức cũng có xu hướng  chịu làm thuê đến khi đủ mạnh để tách ra lập tổ chức kinh doanh của mình để trở thành ông chủ,  thầy hay chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều trí thức, tiểu tư sản trải qua sự rèn luyện và công tác  mà có bản chất giai cấp công nhân thì nhiều người xuất thân từ công nhân khi được đề bạt lên  lãnh đạo, quản lý lại để mai một bảnchất giai cấp của mình. Làm công nhân không phải là mơ ước  và sự tự lựa chọn không chỉ đối với những thanh niên trẻ mà còn đối với những người đang trong  nghề. Tỷ lệ giai cấp công nhân trong các cấp uỷ, nhất là cấp cao, cấp Trung ương thường không  đạt như mong muốn và kế hoạch phấn đấu chủ yếu là do chưa đáp ứng được các yêu cầu, tiêu  chuẩn của cán bộ lãnh đạo thời kỳđổi mới của Đảng. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ gây nên sự biến động thường xuyên, ngày càng  đa dạng, phức tạp, không thuần nhấtvề số lượng, chất lượng của giai cấp công nhân Việt Nam.  Điều đó được thể hiện tập trung trên các phương diện sau: ­Sự giảm sút nhanh chóng về số lượng công nhân trong khu vực kinh tế nhà ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: