Danh mục

Tiểu luận môn Tài chính hành vi: Ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi để giải thích các trường hợp trong thực tiễn

Số trang: 16      Loại file: docx      Dung lượng: 382.25 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 16,000 VND Tải xuống file đầy đủ (16 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tiểu luận với các nội dung: cơ sở lý thuyết, tóm tắt case study, phân tích thiên kiến, giải thích lựa chọn thích ứng thiên kiến, phân tích lựa chọn cách phân bổ danh mục đầu tư, vận dụng lý thuyết tài chính hành vi để giải thích các trường hợp trong thực tiễn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận môn Tài chính hành vi: Ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi để giải thích các trường hợp trong thực tiễn Danh sách nhóm và Mô tả phân công công việc STT Họ và tên Nhiệm vụ Mô tả phân công công việc Chuẩn bị hỗ trợ phần thuyết trình và trả lời câu hỏi; Soạn thảo và trình bày file word; Thực hiện các nội dung sau: cơ sở lý thuyết, Lê Thị Mỹ Nhóm tóm tắt case study, phân tích thiên kiến, giải 1 Linh trưởng thích lựa chọn thích ứng thiên kiến, phân tích lựa chọn cách phân bổ danh mục đầu tư; Chuẩn bị nội dung bảng phân công việc, kết luận, tài liệu tham khảo; Thiết kế và soạn nội dung Power Point. Chuẩn bị phần thuyết trình và trả lời câu hỏi; Tham gia ý kiến tổng hợp bài viết; Trần Quốc Thực hiện các nội dung sau: giới thiệu, tóm tắt 2 Thành viên Đạt case study, phân tích thiên kiến, giải thích lựa chọn thích ứng thiên kiến, phân tích lựa chọn cách phân bổ danh mục đầu tư. Chuẩn bị hỗ trợ phần thuyết trình và trả lời câu hỏi; Tham gia ý kiến tổng hợp bài viết; Thực hiện các nội dung sau: tóm tắt case 3 Lê Tuấn Anh Thành viên study, phân tích thiên kiến, giải thích lựa chọn thích ứng thiên kiến, phân tích lựa chọn cách phân bổ danh mục đầu tư, kết luận; Thiết kế và soạn nội dung Power Point. Mục lục 1. Giới thiệu Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một người thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc, ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa. Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là ý kiến mình có sẵn về một người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người và vật theo suy nghĩ riêng chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực. Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu của kính. Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều xanh. Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh là ở mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán đoán của người có thiên kiến thường không chính xác. Qua câu chuyện trên cũng cho chúng ta thấy được khái quát sơ lược của thiên kiến là gì? Và để đi sâu nghiên cứu những khía cạnh xung quanh thiên kiến chúng ta có thể đọc qua ví dụ về bà Tâm để tìm hiểu kĩ hơn cũng như phân tích hay xây dựng những hướng đầu tư tốt hơn cho bà Tâm. 2. Cơ sở lý thuyết Lý thuyết triển vọng (Prospect Theory): Cho rằng lý thuyết hữu dụng kỳ vọng chuẩn, chúng ta không thể giải thích một cách đầy đủ về việc ra quyết định trong điều kiện rủi ro. Luận điểm này dựa trên những bằng chứng thực nghiệm cho thấy con người có những hành vi trái ngược với lý thuyết hữu dụng kỳ vọng chuẩn. Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng chuẩn đề cập con người nên hành động thế nào còn lý thuyết triển vọng đề cập con người thực sự hành động thế nào. E ngại rủi ro (risk averse): Mô tả một cá nhân ưa thích giá trị kỳ vọng của triển vọng hơn so chính triển vọng đó. Khả năng chấp nhận rủi ro (risk capacity): Là mức độ rủi ro phù hợp với độ tuổi, kế hoạch, nghỉ hưu, thu nhập, nhu cầu thanh khoản và nhiều yếu tố khác của một cá nhân có thái độ đối với rủi ro ở mức trung bình. Nhận thức (perception): Có chức năng tải thông tin vào “máy tính con người” nhưng thường đọc sai thông tin. Chúng ta chỉ nhìn thấy những gì chúng ta kỳ vọng. Nhận thức có sự chọn lọc, trong đó các kỳ vọng có yếu tố tác động mạnh mẽ. Lệch lạc nhận thức muộn hay dự đoán theo sự thật đã xảy ra (hindsight bias): thường xảy ra trong hoàn cảnh khi mà con người tin rằng (sau khi sự thật đã xảy ra) sự khởi đầu của một số sự kiện trong quá khứ là có thể dự đoán được và rất rõ ràng, trong khi thực tế là sự kiện đó đã không thể được dự đoán trước một cách hợp lý. Xung đột nhận thức (cognitive dissonance): Đội khi một số nhận thức bị bóp méo bởi ý muốn bản thân (self-serving fashion). Xung đột nhận thức tạo nên tình huống trong đó mọi người bị thúc đẩy phải giảm thiểu hoặc né tránh những mâu thuẫn trong tâm lý, thường để nhằm gia tăng hình ảnh tích cực của bản thân. Trí nhớ (memory): Sự sai lệch ngày càng tăng khi một người cố gắng nhớ lại nhận thức hoặc quan điểm trong quá khứ. Trí nhớ sẽ được tái tạo lại, tuy nhiên không chỉ tái tạo lại mà còn biến đổi rất mạnh mẽ. Hiệu ứng tương phản (contrast effect): nhận thức và trí nhớ bị ảnh hưởng bởi sự trình bày hay bối cảnh. Hiệu ứng ban đầu (primacy effect): Trong một loạt các yếu tố được đưa ra có tác động đến nhận thức thì yếu tố nào xuất hiện trước sẽ tác động lớn hơn. Hiệu ứng tức thì (recency effect): Ngược lại hiệu ứng ban đầu, đó là những yếu tố xuất hiện cuối cùng sẽ mang tác động lớn hơn. Hiệu ứng danh tiếng (halo effect): Người ta thường bị quan điểm và thái độ chung về một sự vật (sự việc hay con người) làm ảnh hưởng đến việc đánh giá một tính chất nào đó của ...

Tài liệu được xem nhiều: