Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
Số trang: 19
Loại file: pdf
Dung lượng: 821.28 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế trình bày về quan điểm nợ công, tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - ý nghĩa của ngưỡng nợ đến trần nợ quốc gia, tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm, ý nghĩa của ngưỡng nợ và trần nợ quốc gia.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế TRƯỜNG ĐẠ I H ỌC KINH TẾ TP. HCM Khoa Kế Toán – Kiểm Toán TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM Khoa Kế Toán – Kiểm To án NHÓM 27: STT HỌ TÊN MSSV CHỮ KÝ 46 Bùi Thị Mộng Huyền 33121020452 114 Nguyễn Thị Hồng Son 33111025871 143 Trần Thị Bích Trâm 33121021605 159 Bùi Nguyễn Thảo Vy 33121021556 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1 I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG..........................................................................................2 II. TÁ C ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - Ý NGHĨA CỦA NGƯỠNG NỢ VÀ TRẦN NỢ QUỐC GIA ........................................................4 2.1 Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm.. 4 2.2 Ý nghĩa của ngưỡng nợ và trần nợ quốc gia..........................................................9 KẾT LUẬ N...........................................................................................................................16 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ ADB Asian Development Bank EU European Union IMF International Monetary Fund GDP Gross Domestic Product ODA Official Development Assistance LỜI MỞ ĐẦU Nợ công đang trở thành vấn đề nóng bỏng không chỉ ở riêng Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản mà nhiều nước đang phát triển trên thế giới cũng đang phải đối mặt, trong đó có Việt Nam. Bộ Tài chính dự kiến nợ công của Việt Nam năm 2011 ở mức khoảng 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP. Mặc dù chỉ số trên vẫn được xem là trong ngưỡng an toàn nhưng nếu không có một chương trình và kế hoạch quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước ngoài thì nguy cơ mất kiểm soát nợ công trong tương lai là điều có thể xảy ra. Nợ công đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn định của nền kinh tế toàn thế giới, viễn cảnh của cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã được đặt ra. Trong khi đó, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ nhất khi nợ vượt mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể. Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và thực chất nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào..., cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách - thắt lưng buộc bụng - tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong bài tiểu luận này nhóm 27 phân tích mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, tron g qu á t rìn h n gh iên cứu n hó m hẳn còn nh iều t h iếu s ó t, mon g nh ận được sự góp ý nhiệt tình từ thầy và các bạn. I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Ở một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương ( Đài Loan, Bungari, Rumani), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận ( Thái Lan, M acedonia ). Tại Việt Nam , theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương”. Cũng theo luật này: Nợ chính phủ: Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương: Là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người thường chỉ nghĩ đến nợ Chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ phát hành 1 tỷ đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một khoản vay 2 tỷ đô-la với một ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính phủ, có thể có người vẫn nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công. Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”: Là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả (Luật quản lý nợ công năm 2009). Vốn vay từ A DB hay WB đương nhiên là nợ nước ngoài rồi nhưng một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô-la, chẳng hạn, dù c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế TRƯỜNG ĐẠ I H ỌC KINH TẾ TP. HCM Khoa Kế Toán – Kiểm Toán TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM Khoa Kế Toán – Kiểm To án NHÓM 27: STT HỌ TÊN MSSV CHỮ KÝ 46 Bùi Thị Mộng Huyền 33121020452 114 Nguyễn Thị Hồng Son 33111025871 143 Trần Thị Bích Trâm 33121021605 159 Bùi Nguyễn Thảo Vy 33121021556 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1 I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG..........................................................................................2 II. TÁ C ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - Ý NGHĨA CỦA NGƯỠNG NỢ VÀ TRẦN NỢ QUỐC GIA ........................................................4 2.1 Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm.. 4 2.2 Ý nghĩa của ngưỡng nợ và trần nợ quốc gia..........................................................9 KẾT LUẬ N...........................................................................................................................16 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ ADB Asian Development Bank EU European Union IMF International Monetary Fund GDP Gross Domestic Product ODA Official Development Assistance LỜI MỞ ĐẦU Nợ công đang trở thành vấn đề nóng bỏng không chỉ ở riêng Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản mà nhiều nước đang phát triển trên thế giới cũng đang phải đối mặt, trong đó có Việt Nam. Bộ Tài chính dự kiến nợ công của Việt Nam năm 2011 ở mức khoảng 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP. Mặc dù chỉ số trên vẫn được xem là trong ngưỡng an toàn nhưng nếu không có một chương trình và kế hoạch quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước ngoài thì nguy cơ mất kiểm soát nợ công trong tương lai là điều có thể xảy ra. Nợ công đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn định của nền kinh tế toàn thế giới, viễn cảnh của cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã được đặt ra. Trong khi đó, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ nhất khi nợ vượt mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể. Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và thực chất nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào..., cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách - thắt lưng buộc bụng - tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong bài tiểu luận này nhóm 27 phân tích mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, tron g qu á t rìn h n gh iên cứu n hó m hẳn còn nh iều t h iếu s ó t, mon g nh ận được sự góp ý nhiệt tình từ thầy và các bạn. I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Ở một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương ( Đài Loan, Bungari, Rumani), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận ( Thái Lan, M acedonia ). Tại Việt Nam , theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương”. Cũng theo luật này: Nợ chính phủ: Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương: Là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người thường chỉ nghĩ đến nợ Chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ phát hành 1 tỷ đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một khoản vay 2 tỷ đô-la với một ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính phủ, có thể có người vẫn nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công. Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”: Là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả (Luật quản lý nợ công năm 2009). Vốn vay từ A DB hay WB đương nhiên là nợ nước ngoài rồi nhưng một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô-la, chẳng hạn, dù c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tăng trưởng kinh tế Lý thuyết nợ công Nợ công GDP Thực trạng nợ công Việt Nam Tài chính tiền tệ Tiểu luận tài chính tiền tệ Tiểu luận tài chínhGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô: Phần 1 - N. Gregory Mankiw, Vũ Đình Bách
117 trang 717 3 0 -
203 trang 345 13 0
-
Nguồn lực tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam
3 trang 246 0 0 -
Tiểu luận: Các phương pháp định giá
39 trang 243 0 0 -
Giáo trình Nhập môn tài chính - Tiền tệ: Phần 1 - PGS.TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng
253 trang 220 3 0 -
13 trang 191 0 0
-
19 trang 184 0 0
-
Bài giảng học Lý thuyết tài chính- tiền tệ
54 trang 174 0 0 -
Các bước cơ bản trình bày báo cáo tài chính hợp nhất theo chuẩn mực kế toán quốc tế
6 trang 172 0 0 -
Bài giảng Kinh tế phát triển: Chương 3 - PGS .TS Đinh Phi Hổ
35 trang 163 0 0