Tìm hiểu Bảo hiểm xã hội
Số trang: 42
Loại file: doc
Dung lượng: 140.00 KB
Lượt xem: 32
Lượt tải: 0
Xem trước 5 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tài liệu "Tìm hiểu Bảo hiểm xã hội" sẽ giúp bạn nắm bắt 1 số kiến thức về BHXH như: Sự cần thiết của hệ thống BHXH, các khái niệm về BHXH, mục đích của BHXH,...Cùng tham khảo nhé.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu Bảo hiểm xã hội BẢO HIỂM XÃ HỘI I. NHỮNG NHẬN THỨC CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1. Sự cần thiết của hệ thống Bảo hiểm xã hội Sự ra đời của hệ thống Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những sáng tạo sáng chói của loài người trong lịch sử phát triển xã hội. Ý tưởng về BHXH được xem là một ý tưởng về chủ nghĩa xã hội, nhưng nó lại tiết kiệm tư bản. Bảo hiểm xã hội hình thành từ nhận thức rằng nền kinh tế thị trường cạnh tranh không phân phát thành quả của nó một cách công bằng cho tất cả mọi người, và hệ thống quản lý kinh tế thị trường đôi khi bị suy nhược. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh về lợi ích và chi phí, nhưng cả hai yếu tố này (lợi ích và chi phí) thì không được chia sẻ đồng đều. Vì vậy, BHXH là một sự thu nhận tư bản khôn ngoan trên phần đóng gióp của những nhà ủng hộ nền kinh tế cạnh tranh. Đồng thời nó nói lên thực tế rằng công dân có thể gặp phải những rủi ro do nền kinh tế này mang lại như tình trạng thất nghiệp, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc do tuổi già, do đó công dân cần được bảo đảm một mức độ an toàn nhất định để chống lại các rủi ro trên. Năm 1910, Henry Rogers Seager, một nhà kinh tế học thuộc Viện Đại học Columbia đã viết: chúng ta cần phải đi đến một sự nhất trí rằng ý tưởng về BHXH là ý tưởng đạo đức và đáng được khen ngợi cho cơ chế mà mỗi người trong chúng ta tự chăm sóc cho quyền lợi của chính mình. Sẽ sai lầm nếu có ai đó nghĩ rằng sự tư lợi trong ý nghĩa này đồng nghĩa với sự ích kỷ. Adam Smith khẳng định rằng đối với một người bình thường ở trong điều kiện bình thường khi đã đóng góp phần lớn những lợi ích mà anh ta theo đuổi cho xã hội, thì anh ta phải được xã hội nói chung, từng xí nghiệp cụ thể nói riêng chăm lo cho anh ta, và sự chăm lo này chính là biểu hiện của hành động hợp tác và giúp đỡ của tập thể dành cho cá nhân. Seager sau đó nêu lên những rủi ro cần được đem vào trong chương trình BHXH như tai nạn công nghiệp, ốm đau, chết sớm do tai nạn lao động, thất nghiệp, tuổi già, và những rủi ro khác tương tự như vậy. Ông ta đi đến kết luận Giáo trình Luật Lao động cơ bản 121 là bằng những phương tiện của hành động hợp tác và sự tạo ra hệ thống BHXH, và chỉ duy nhất bằng những phương tiện này, chúng ta mới hy vọng thu thập được sự đóng góp từ thu nhập của người lao động, của người sử dụng lao động nhằm mục đích bảo đảm và nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống cho chúng ta. Ông ta đã chỉ ra điều hoàn toàn đúng, đó là lý do tại sao chúng ta đã bắt tay vào xây dựng hệ thống BHXH. 2. Các khái niệm về Bảo hiểm xã hội Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức được sử dụng làm tiêu đề cho một văn bản pháp luật vào năm 1935 (Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ9). Thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật được thông qua tại New Zealand năm 1938. Năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ này được dùng trong Hiến chương Đại Tây Dương (the Atlantic Charter of 1941). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO10) nhanh chóng chấp nhận thuật ngữ “bảo hiểm xã hội”, đây là mốc quan trọng ghi nhận giá trị của thuật ngữ này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhưng phản ánh được nguyện vọng sâu sắc nhất của nhân dân lao động trên toàn thế giới. Thuật ngữ “bảo hiểm xã hội” được hiểu không giống nhau giữa các nước về mức độ phạm vi rộng hẹp của nó. Tuy nhiên, về cơ bản thì thuật ngữ này được hiểu với nghĩa là sự bảo đảm an toàn của xã hội dành cho thành viên của nó thông qua các quy trình của hệ thống công cộng, nhằm giải toả những lo âu về kinh tế và xã hội cho thành viên. Nói cách khác, nó góp phần giúp các thành viên trong xã hội và gia đình khắc phục sự suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập thực tế do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hư trí, và tử tuất; đồng thời cung cấp về dịch vụ y tế, trợ cấp gia đình có con nhỏ. Theo D. Pieters bảo hiểm xã hội được hiểu với tư cách là một tổ chức được hình thành với mục đích hỗ tương giữa người với người để đối phó với sự thiếu hụt thu nhập (chẳng hạn như thu nhập từ tiền công lao động), hoặc những tổn thất cụ thể khác. Sinfield thì đề nghị BHXH nên được định nghĩa là một cơ chế bảo đảm an toàn toàn diện cho con người chống lại sự mất mát về vật chất. Quan điểm của Berghman cũng tương tự như thế, Berghman quan niệm rằng BHXH là một cơ chế bảo hộ toàn diện cho con người chống lại những tổn thất vật chất. Theo Giancarlo Perone bảo hiểm xã hội là một hệ thống bao gồm những lợi ích và dịch vụ cung cấp cho công dân khi cần thiết, bất kể công dân đó làm công việc gì. Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của Hoa Kỳ (the Social Security Act of 1935) 9 chỉ bao gồm bốn chế độ bảo hiểm là chế độ hưu trí, tử tuất, mất khả năng lao động, và thất nghiệp. Viết tắt của International Labour Organization. Giáo trình Luật Lao động cơ 10 bản 122 Dưới góc độ pháp lý, Bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động hoặc khi chết. Cần phân biệt bảo hiểm xã hội với một số khái niệm có nội dung gần với nó như: bảo hiểm thương mại, an sinh xã hội, cứu tế xã hội v.v. . . .Khái niệm an sinh xã hội có phạm vi rộng hơn so với bảo hiểm xã hội, những chế định cơ bản của hệ thống an toàn xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, trợ cấp gia đình, trợ cấp do các quỹ công cộng tài trợ, quỹ dự phòng và sự bảo vệ được giới chủ và các tổ chức xã hội cung cấp. Còn bảo hiểm thương mại chủ yếu mang tính chất tự nguyện, quan hệ bảo hiểm xuất hiện trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm, phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm nhà nước rộng hơn so với bảo hiểm xã hội ( gồm mọi cá nhân, tổ chức), mức hưởng bảo hiểm được đề xuất trên cơ sở mức tham gia bảo hiểm và ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu Bảo hiểm xã hội BẢO HIỂM XÃ HỘI I. NHỮNG NHẬN THỨC CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1. Sự cần thiết của hệ thống Bảo hiểm xã hội Sự ra đời của hệ thống Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những sáng tạo sáng chói của loài người trong lịch sử phát triển xã hội. Ý tưởng về BHXH được xem là một ý tưởng về chủ nghĩa xã hội, nhưng nó lại tiết kiệm tư bản. Bảo hiểm xã hội hình thành từ nhận thức rằng nền kinh tế thị trường cạnh tranh không phân phát thành quả của nó một cách công bằng cho tất cả mọi người, và hệ thống quản lý kinh tế thị trường đôi khi bị suy nhược. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh về lợi ích và chi phí, nhưng cả hai yếu tố này (lợi ích và chi phí) thì không được chia sẻ đồng đều. Vì vậy, BHXH là một sự thu nhận tư bản khôn ngoan trên phần đóng gióp của những nhà ủng hộ nền kinh tế cạnh tranh. Đồng thời nó nói lên thực tế rằng công dân có thể gặp phải những rủi ro do nền kinh tế này mang lại như tình trạng thất nghiệp, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc do tuổi già, do đó công dân cần được bảo đảm một mức độ an toàn nhất định để chống lại các rủi ro trên. Năm 1910, Henry Rogers Seager, một nhà kinh tế học thuộc Viện Đại học Columbia đã viết: chúng ta cần phải đi đến một sự nhất trí rằng ý tưởng về BHXH là ý tưởng đạo đức và đáng được khen ngợi cho cơ chế mà mỗi người trong chúng ta tự chăm sóc cho quyền lợi của chính mình. Sẽ sai lầm nếu có ai đó nghĩ rằng sự tư lợi trong ý nghĩa này đồng nghĩa với sự ích kỷ. Adam Smith khẳng định rằng đối với một người bình thường ở trong điều kiện bình thường khi đã đóng góp phần lớn những lợi ích mà anh ta theo đuổi cho xã hội, thì anh ta phải được xã hội nói chung, từng xí nghiệp cụ thể nói riêng chăm lo cho anh ta, và sự chăm lo này chính là biểu hiện của hành động hợp tác và giúp đỡ của tập thể dành cho cá nhân. Seager sau đó nêu lên những rủi ro cần được đem vào trong chương trình BHXH như tai nạn công nghiệp, ốm đau, chết sớm do tai nạn lao động, thất nghiệp, tuổi già, và những rủi ro khác tương tự như vậy. Ông ta đi đến kết luận Giáo trình Luật Lao động cơ bản 121 là bằng những phương tiện của hành động hợp tác và sự tạo ra hệ thống BHXH, và chỉ duy nhất bằng những phương tiện này, chúng ta mới hy vọng thu thập được sự đóng góp từ thu nhập của người lao động, của người sử dụng lao động nhằm mục đích bảo đảm và nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống cho chúng ta. Ông ta đã chỉ ra điều hoàn toàn đúng, đó là lý do tại sao chúng ta đã bắt tay vào xây dựng hệ thống BHXH. 2. Các khái niệm về Bảo hiểm xã hội Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức được sử dụng làm tiêu đề cho một văn bản pháp luật vào năm 1935 (Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ9). Thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật được thông qua tại New Zealand năm 1938. Năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ này được dùng trong Hiến chương Đại Tây Dương (the Atlantic Charter of 1941). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO10) nhanh chóng chấp nhận thuật ngữ “bảo hiểm xã hội”, đây là mốc quan trọng ghi nhận giá trị của thuật ngữ này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhưng phản ánh được nguyện vọng sâu sắc nhất của nhân dân lao động trên toàn thế giới. Thuật ngữ “bảo hiểm xã hội” được hiểu không giống nhau giữa các nước về mức độ phạm vi rộng hẹp của nó. Tuy nhiên, về cơ bản thì thuật ngữ này được hiểu với nghĩa là sự bảo đảm an toàn của xã hội dành cho thành viên của nó thông qua các quy trình của hệ thống công cộng, nhằm giải toả những lo âu về kinh tế và xã hội cho thành viên. Nói cách khác, nó góp phần giúp các thành viên trong xã hội và gia đình khắc phục sự suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập thực tế do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hư trí, và tử tuất; đồng thời cung cấp về dịch vụ y tế, trợ cấp gia đình có con nhỏ. Theo D. Pieters bảo hiểm xã hội được hiểu với tư cách là một tổ chức được hình thành với mục đích hỗ tương giữa người với người để đối phó với sự thiếu hụt thu nhập (chẳng hạn như thu nhập từ tiền công lao động), hoặc những tổn thất cụ thể khác. Sinfield thì đề nghị BHXH nên được định nghĩa là một cơ chế bảo đảm an toàn toàn diện cho con người chống lại sự mất mát về vật chất. Quan điểm của Berghman cũng tương tự như thế, Berghman quan niệm rằng BHXH là một cơ chế bảo hộ toàn diện cho con người chống lại những tổn thất vật chất. Theo Giancarlo Perone bảo hiểm xã hội là một hệ thống bao gồm những lợi ích và dịch vụ cung cấp cho công dân khi cần thiết, bất kể công dân đó làm công việc gì. Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của Hoa Kỳ (the Social Security Act of 1935) 9 chỉ bao gồm bốn chế độ bảo hiểm là chế độ hưu trí, tử tuất, mất khả năng lao động, và thất nghiệp. Viết tắt của International Labour Organization. Giáo trình Luật Lao động cơ 10 bản 122 Dưới góc độ pháp lý, Bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động hoặc khi chết. Cần phân biệt bảo hiểm xã hội với một số khái niệm có nội dung gần với nó như: bảo hiểm thương mại, an sinh xã hội, cứu tế xã hội v.v. . . .Khái niệm an sinh xã hội có phạm vi rộng hơn so với bảo hiểm xã hội, những chế định cơ bản của hệ thống an toàn xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, trợ cấp gia đình, trợ cấp do các quỹ công cộng tài trợ, quỹ dự phòng và sự bảo vệ được giới chủ và các tổ chức xã hội cung cấp. Còn bảo hiểm thương mại chủ yếu mang tính chất tự nguyện, quan hệ bảo hiểm xuất hiện trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm, phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm nhà nước rộng hơn so với bảo hiểm xã hội ( gồm mọi cá nhân, tổ chức), mức hưởng bảo hiểm được đề xuất trên cơ sở mức tham gia bảo hiểm và ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bảo hiểm xã hội Tài liệu bảo hiểm xã hội Kiến thức về bảo hiểm xã hội Hệ thống bảo hiểm xã hội Mục đích của bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là gìGợi ý tài liệu liên quan:
-
Quản lý dữ liệu thông tin người hưởng bảo hiểm xã hội
6 trang 224 0 0 -
21 trang 220 0 0
-
18 trang 217 0 0
-
Tìm hiểu 150 tình huống pháp luật về bảo hiểm xã hội - bảo hiểm y tế: Phần 1
101 trang 190 0 0 -
32 trang 188 0 0
-
Tổng quan về bảo hiểm xã hội - phần 1
10 trang 188 0 0 -
19 trang 157 0 0
-
8 trang 136 0 0
-
Thông tư số 24/2007/TT-BLĐTBXH
14 trang 130 0 0 -
Mẫu giấy đề nghị tiếp tục nhận chế độ bảo hiểm xã hội
2 trang 120 0 0