![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam, trường hợp vùng Đồng bằng Sông Hồng
Số trang: 17
Loại file: pdf
Dung lượng: 168.47 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nội dung của bài viết trình bày một số quan niệm về vùng và vùng kinh tế, phương pháp và quy trình lập quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng, nội dung và phương pháp lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng Sông Hồng, một số kiến nghị đối với cách tiếp cận, phương pháp và quy
trình quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam, trường hợp vùng Đồng bằng Sông Hồng CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 261 TÌM HIỂU VỀ QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN VÙNG Ở VIỆT NAM, TRƯỜNG HỢP VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ThS. Nguyễn Hoàng Hà Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lời nói đầu Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), chúng ta bắt đầu xây dựng chiến lược phát triển đất nước với thời kỳ 10 năm (1991‑2000) và cho đến nay, Việt Nam đã trải qua gần hai thời kỳ chiến lược phát triển. Để cụ thể hoá một bước của chiến lược phát triển đất nước, từng vùng lãnh thổ được quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội. Đến thời điểm hiện tại, quy hoạch tổng thể phát triển 6 vùng kinh tế ‑ xã hội1 ở Việt Nam đang được trình Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương đóng góp ý kiến. Có phải chăng rằng chỉ có Việt Nam có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế vùng, được xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là cụ thể hoá hơn các mục tiêu, định hướng, và giải pháp của chiến lược phát triển đất nước đối với từng vùng? Nếu chỉ cần vào trang web tìm kiếm hàng đầu thế giới, Google, và nhập dòng chữ “regional planning” (quy hoạch vùng) ta sẽ nhận được 603.000.000 địa chỉ tương ứng. Như vậy, có thể thấy rằng, quy hoạch vùng của Việt Nam không phải là mới, là duy nhất. Trong các tài liệu, tác giả nghiên cứu, quy hoạch vùng đang được thực hiện ở nhiều nước khác nhau, từ những nước phát triển đến những quốc đang phát triển, nhưng khái niệm về vùng, các cách tiếp cận, những nội dung và phương thức thực hiện quy hoạch có nhiều điểm khác biệt. Sau 1. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc; Vùng Đồng bằng sông Hồng; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung; Vùng Tây Nguyên; Vùng Đông Nam Bộ; và Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 262 Nguyễn Hoàng Hà đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu. Để minh hoạ rõ thêm về việc nghiên cứu và xây dựng quy hoạch tại Việt Nam, tác giả viện dẫn trường hợp Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng do Viện Chiến lược phát triển làm Chủ đề án. 1. Một số quan niệm về vùng và vùng kinh tế 1.1. Quan niệm về vùng Theo Gregory và các cộng sự (2009: 630), hầu hết các nhà nghiên cứu đều định nghĩa vùng là (a) một miền hoặc một khu vực không rõ ràng về quy mô trên bề mặt của trái đất, bao gồm nhiều thành tố khác nhau tạo thành một sự kết hợp chức năng; (b) là một phần của một hệ thống các vùng che phủ trái đất; hoặc (c) một bộ phận của một đặc trưng của trái đất, như là một vùng khí hậu đặc biệt (cụ thể) hoặc vùng kinh tế đặc biệt (cụ thể). Trong cuốn sách của mình, Phú và Thu (2006:18‑19), dựa trên các tài liệu nghiên cứu, đã cho rằng vùng là một khái niệm về không gian nhất định trên trái đất. Hai ông cho rằng, vùng phải có được những đặc tính cơ bản, bao gồm: một không gian nhất định; phạm vi và ranh giới nhất định; và có hình thức kết cấu nhất định. Các tài liệu cho thấy rằng, các khái niệm về vùng lãnh thổ hay vùng địa lý đều không có sự khác biệt nhiều và đối với các quốc gia, phạm vi (ranh giới) của vùng địa lý cũng không có biến động nhiều qua thời gian. 1.2. Vùng kinh tế và vùng kinh tế ‑ xã hội Không giống như vùng địa lý đơn thuần, khái niệm về vùng kinh tế mang tính “động” do các hình thái, phương thức và các nội dung hoạt động kinh tế của con người thay đổi nhanh chóng qua thời gian. Các tính chất đặc trưng về vùng kinh tế bắt đầu có những biến đổi, đặc biệt là về không gian và chức năng kinh tế của vùng. Vùng kinh tế gắn liền với sự phát triển của ngành địa lý kinh tế. Ngành địa lý kinh tế được phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19. Trong vòng hơn 50 năm kể từ khi xuất hiện, lĩnh vực địa lý kinh tế và vùng kinh tế đã được đánh dấu bằng những giai đoạn năng động và đổi mới với các nghiên cứu của Weber (1909), Losch (1939), Isard (1956). Các Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam... 263 khái niệm về vùng kinh tế trong giai đoạn này được gắn với các hoạt động tích tụ (tập trung) kinh tế gắn liền với các hoạt động thương mại như buôn bán trao đổi hàng hoá. Đến những năm 1960, lý thuyết mới về vùng kinh tế và địa lý kinh tế được xuất hiện, với cuộc cách mạng định lượng, từ lý giải về vị trí đến việc giải thích về hành vi của khoa học không gian. Tiếp đó, những năm 1980, lý thuyết mới về địa lý công nghiệp một sự phối hợp của đổi mới lý thuyết và bối cảnh kinh tế thay đổi nhanh chóng đã có một lĩnh vực năng động tri thức. Cùng thời điểm đó, ở những nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô (trước đây) cũng hình thành việc xây dựng các vùng kinh tế. Theo nhà địa kinh tế học, Alaev (trích Phú và Thu 2006: 19‑20) vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân, có những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản; tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của vùng..., coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân. Có thể thấy rằng, vùng kinh tế theo quan niệm của Liên Xô gắn chặt với chuyên môn hoá sản xuất của vùng trong lãnh thổ quốc gia, thể hiện qua cơ cấu ngành (sản phẩm), nghề (lao động) của vùng đó. Một trào lưu mới trong việc quan niệm vùng kinh tế được bắt đầu từ những năm 1990 sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập hoá khu vực được diễn ra mạnh mẽ làm đồng thời xuất hiện những khái niệm mới như chuỗi giá trị toàn cầu, hệ thống phân phối toàn cầu, đầu tư ra nước ngoài (offshore), khu vực hậu cần (logistic), hoặc cụm tương hỗ (cluster),... nhằm tạo ra những giá trị lớn hơn. Các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các luồng thương mại, cũng như các hiệu ứng công nghệ (technology spillover) được luân chuyển nhanh chóng giữa các quốc gia thông qua các tập đoàn đa quốc gia. Lúc này, quan niệm về vùng đã có sự thay đổi. Barnet (2001: 15) đã định n ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam, trường hợp vùng Đồng bằng Sông Hồng CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 261 TÌM HIỂU VỀ QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN VÙNG Ở VIỆT NAM, TRƯỜNG HỢP VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ThS. Nguyễn Hoàng Hà Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lời nói đầu Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), chúng ta bắt đầu xây dựng chiến lược phát triển đất nước với thời kỳ 10 năm (1991‑2000) và cho đến nay, Việt Nam đã trải qua gần hai thời kỳ chiến lược phát triển. Để cụ thể hoá một bước của chiến lược phát triển đất nước, từng vùng lãnh thổ được quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội. Đến thời điểm hiện tại, quy hoạch tổng thể phát triển 6 vùng kinh tế ‑ xã hội1 ở Việt Nam đang được trình Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương đóng góp ý kiến. Có phải chăng rằng chỉ có Việt Nam có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế vùng, được xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là cụ thể hoá hơn các mục tiêu, định hướng, và giải pháp của chiến lược phát triển đất nước đối với từng vùng? Nếu chỉ cần vào trang web tìm kiếm hàng đầu thế giới, Google, và nhập dòng chữ “regional planning” (quy hoạch vùng) ta sẽ nhận được 603.000.000 địa chỉ tương ứng. Như vậy, có thể thấy rằng, quy hoạch vùng của Việt Nam không phải là mới, là duy nhất. Trong các tài liệu, tác giả nghiên cứu, quy hoạch vùng đang được thực hiện ở nhiều nước khác nhau, từ những nước phát triển đến những quốc đang phát triển, nhưng khái niệm về vùng, các cách tiếp cận, những nội dung và phương thức thực hiện quy hoạch có nhiều điểm khác biệt. Sau 1. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc; Vùng Đồng bằng sông Hồng; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung; Vùng Tây Nguyên; Vùng Đông Nam Bộ; và Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 262 Nguyễn Hoàng Hà đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu. Để minh hoạ rõ thêm về việc nghiên cứu và xây dựng quy hoạch tại Việt Nam, tác giả viện dẫn trường hợp Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng do Viện Chiến lược phát triển làm Chủ đề án. 1. Một số quan niệm về vùng và vùng kinh tế 1.1. Quan niệm về vùng Theo Gregory và các cộng sự (2009: 630), hầu hết các nhà nghiên cứu đều định nghĩa vùng là (a) một miền hoặc một khu vực không rõ ràng về quy mô trên bề mặt của trái đất, bao gồm nhiều thành tố khác nhau tạo thành một sự kết hợp chức năng; (b) là một phần của một hệ thống các vùng che phủ trái đất; hoặc (c) một bộ phận của một đặc trưng của trái đất, như là một vùng khí hậu đặc biệt (cụ thể) hoặc vùng kinh tế đặc biệt (cụ thể). Trong cuốn sách của mình, Phú và Thu (2006:18‑19), dựa trên các tài liệu nghiên cứu, đã cho rằng vùng là một khái niệm về không gian nhất định trên trái đất. Hai ông cho rằng, vùng phải có được những đặc tính cơ bản, bao gồm: một không gian nhất định; phạm vi và ranh giới nhất định; và có hình thức kết cấu nhất định. Các tài liệu cho thấy rằng, các khái niệm về vùng lãnh thổ hay vùng địa lý đều không có sự khác biệt nhiều và đối với các quốc gia, phạm vi (ranh giới) của vùng địa lý cũng không có biến động nhiều qua thời gian. 1.2. Vùng kinh tế và vùng kinh tế ‑ xã hội Không giống như vùng địa lý đơn thuần, khái niệm về vùng kinh tế mang tính “động” do các hình thái, phương thức và các nội dung hoạt động kinh tế của con người thay đổi nhanh chóng qua thời gian. Các tính chất đặc trưng về vùng kinh tế bắt đầu có những biến đổi, đặc biệt là về không gian và chức năng kinh tế của vùng. Vùng kinh tế gắn liền với sự phát triển của ngành địa lý kinh tế. Ngành địa lý kinh tế được phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19. Trong vòng hơn 50 năm kể từ khi xuất hiện, lĩnh vực địa lý kinh tế và vùng kinh tế đã được đánh dấu bằng những giai đoạn năng động và đổi mới với các nghiên cứu của Weber (1909), Losch (1939), Isard (1956). Các Tìm hiểu về quy hoạch tổng thể phát triển vùng ở Việt Nam... 263 khái niệm về vùng kinh tế trong giai đoạn này được gắn với các hoạt động tích tụ (tập trung) kinh tế gắn liền với các hoạt động thương mại như buôn bán trao đổi hàng hoá. Đến những năm 1960, lý thuyết mới về vùng kinh tế và địa lý kinh tế được xuất hiện, với cuộc cách mạng định lượng, từ lý giải về vị trí đến việc giải thích về hành vi của khoa học không gian. Tiếp đó, những năm 1980, lý thuyết mới về địa lý công nghiệp một sự phối hợp của đổi mới lý thuyết và bối cảnh kinh tế thay đổi nhanh chóng đã có một lĩnh vực năng động tri thức. Cùng thời điểm đó, ở những nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô (trước đây) cũng hình thành việc xây dựng các vùng kinh tế. Theo nhà địa kinh tế học, Alaev (trích Phú và Thu 2006: 19‑20) vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân, có những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản; tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của vùng..., coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân. Có thể thấy rằng, vùng kinh tế theo quan niệm của Liên Xô gắn chặt với chuyên môn hoá sản xuất của vùng trong lãnh thổ quốc gia, thể hiện qua cơ cấu ngành (sản phẩm), nghề (lao động) của vùng đó. Một trào lưu mới trong việc quan niệm vùng kinh tế được bắt đầu từ những năm 1990 sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập hoá khu vực được diễn ra mạnh mẽ làm đồng thời xuất hiện những khái niệm mới như chuỗi giá trị toàn cầu, hệ thống phân phối toàn cầu, đầu tư ra nước ngoài (offshore), khu vực hậu cần (logistic), hoặc cụm tương hỗ (cluster),... nhằm tạo ra những giá trị lớn hơn. Các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các luồng thương mại, cũng như các hiệu ứng công nghệ (technology spillover) được luân chuyển nhanh chóng giữa các quốc gia thông qua các tập đoàn đa quốc gia. Lúc này, quan niệm về vùng đã có sự thay đổi. Barnet (2001: 15) đã định n ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Bài viết Phát triển vùng Phát triển vùng ở Việt Nam Quy hoạch phát triển vùng Vùng Đồng bằng Sông Hồng Vùng kinh tếTài liệu liên quan:
-
Giáo án Địa lí 9 - Bài: Vùng Đồng bằng sông Hồng (tiếp theo)
5 trang 44 1 0 -
Chính sách phát triển vùng ở Việt Nam
10 trang 43 0 0 -
Quản lý phát triển đô thị vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam
6 trang 41 0 0 -
Giáo án Địa lí 9 - Bài: Vùng Đồng bằng sông Hồng
8 trang 38 0 0 -
218 trang 36 0 0
-
35 trang 36 0 0
-
Đề cương ôn tập học kì 1 môn Địa lý lớp 9 năm 2023-2024 - Trường THCS Thăng Long
9 trang 32 0 0 -
Địa lý 9 - Thiết kế bài giảng Tập 2
221 trang 27 0 0 -
Mô hình hạ tầng xanh nông thôn điển hình áp dụng cho vùng đồng bằng sông Hồng
7 trang 26 0 0 -
Đề kiểm tra 1 tiết Địa 9 (Kèm đáp án)
41 trang 23 0 0