Thông tin tài liệu:
Khi các nền kinh tế quá độ đang tìm cách để phát triển, ít ra ta cũng cảm thấy bất an khi mỗi nền kinh tế trong ba khối kinh tế lớn dường như đều vướng vào những vấnnạn trầm trọng. Cũng có thể đầy rủi ro cho một quốc gia muốn theo chân những nước khác trên con đường tăng trưởng dựa vào xuất khẩu nếu những thị trường lớn trở nên bất ổn. Nếu những nước nhập khẩu lớn lâm vào cảnh đình trệ kinh tế quá lâu, lượng nhập khẩu sẽ tăng không bao nhiêu và các......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình hình bất ổn ở những nền kinh tế giàu - Liệu có ảnh hưởng xấu ra sao đối với các quốc gia đang phát triển?Fulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countriesTình hình bất ổn ở những nền kinh tế giàu - Liệu có ảnh hưởng xấu ra sao đối vớicác quốc gia đang phát triển?Giáo sư David Dapice, Đại học Tufts và Chương trình Việt Nam, Harvard.Lời mở đầuTrong số ba khu vực kinh tế giàu có quan trọng, mỗi khu vực đều gặp vấn nạn. Rõnhất là Nhật, với tỉ lệ tăng trưởng bình quân đầu người trung bình từ năm 1998 đến2002 bằng 0, và tỉ lệ tăng trưởng lao động đã ở mức âm kể từ năm 1994. Những ngânhàng yếu kém, thâm hụt ngân sách cao, và dân số đang lão hóa của Nhật gây ra nhữngthách thức kinh tế mà nếu càng tồn tại dai dẳng thì sẽ càng khó mà đương đầu nổi.Khu vực dùng đồng euro (bao gồm phần lớn Liên hiệp châu Âu trừ Vương quốc Anh,Đan Mạch và Thụy Điển) liên tục có tỉ lệ thất nghiệp cao, các phúc lợi xã hội như trợcấp hưu trí ở mức không bền vững, và tỉ lệ sinh sản thấp hơn nhiều so với mức đủthay thế lực lượng lao động. Những mức thuế cao đánh vào người lao động có việclàm vĩnh viễn đã hạn chế tạo ra việc làm trong khu vực tư nhân, và góp phần làm tăngthâm hụt ngân sách. Mỹ đạt kết quả tốt hơn một chút so với khu vực dùng đồng euroxét về mặt tăng trưởng GDP bình quân đầu người, và tốt hơn nhiều xét về khía cạnhlao động, nhưng cán cân thanh toán của Mỹ dường như bị thâm hụt triền miên, vànhững vấn nạn đã được bàn tán rất nhiều về bong bóng công nghệ và kế toán doanhnghiệp đã tăng khả năng bị suy thoái nặng.Khi các nền kinh tế quá độ đang tìm cách để phát triển, ít ra ta cũng cảm thấy bất ankhi mỗi nền kinh tế trong ba khối kinh tế lớn dường như đều vướng vào những vấnnạn trầm trọng. Cũng có thể đầy rủi ro cho một quốc gia muốn theo chân những nướckhác trên con đường tăng trưởng dựa vào xuất khẩu nếu những thị trường lớn trở nênbất ổn. Nếu những nước nhập khẩu lớn lâm vào cảnh đình trệ kinh tế quá lâu, lượngnhập khẩu sẽ tăng không bao nhiêu và các thế lực bảo hộ có thể thúc giục các chínhkhách dựng lên những rào cản thương mại. Vì thế, khả năng của những nước giàutrong việc giải quyết những vấn nạn của họ cũng có ý nghĩa đối với những nướcnghèo hy vọng dùng hội nhập toàn cầu để phát triển. Liệu những vấn nạn của họ cócơ may khắc phục hay không?Những vấn nạn mang tính chu kỳ và mang tính cơ cấuĐiều quan trọng là phải phân biệt giữa những biểu hiện của chu kỳ kinh tế, hiện vẫncòn hiện diện dù thường dễ chịu hơn nhiều so với thời kỳ ban đầu, và những vấn nạnmang tính cơ cấu đã ăn sâu. Kinh tế thị trường đôi khi cũng có sai sót. Có thể họ xâydựng quá dư thừa nhà cửa cơ ngơi hoặc đầu tư quá nhiều vào một số năng lực sảnxuất. Nếu lượng xây dựng dư thừa chiếm tỉ lệ cao so với tổng sản lượng, thì kết quảthường là suy thoái. Đây là sự giảm sút tạm thời1 về sản lượng giúp cho những lượngdư thừa được tái định giá, khấu hao hoặc tìm hướng sử dụng khác. Khi những sai lầm1 Một định nghĩa phổ biến của suy thoái, dù không phải là định nghĩa chính thức, là sản lượng tính theogiá không đổi giảm sút trong ít nhất hai quý liên tiếp. Gần đây nhất vào năm 2001, Mỹ có ba quý sụtgiảm sản lượng, và khoảng chừng một năm sụt giảm lao động. Nhật có năm năm giảm sút lao động(1998-2002), và hai năm liên tiếp sụt giảm sản lượng bình quân đầu người vào năm 2001 và 2002.Khu vực dùng đồng euro có mức tăng trưởng sản lượng và lao động trải đều hơn tuy thấp hơn, ít nhất làso với Mỹ. Tỉ lệ thất nghiệp của khu vực này xê dịch từ 8% đến 11%, so với 4%-6% của Mỹ và Nhậttrong những năm gần đây.Gs. David Dapice 1 Dịch: Lửa HạFulbright Economics Teaching Progam Strategic Thinking Instability in rich countriesnày được chỉnh sửa, kinh tế sẽ tăng trưởng bình thường trở lại. Phần lớn các đợt suythoái chấm dứt trong vòng một năm. Các khoản trợ cấp thất nghiệp giảm bớt khókhăn trong khi người lao động tìm việc làm mới. Một đợt suy thoái là một cách đểvốn và lao động được tái phân bổ đến những nơi thực sự cần chúng. Suy thoái khôngphải là điều dễ chịu, nhưng cũng chẳng phải là sai lầm chết người. Qua kinh nghiệmđau thương, những nền kinh tế giàu sẽ tìm ra những cách sử dụng chính sách tiền tệvà thu chi ngân sách, cùng với những chính sách bình ổn khác, để giảm bớt tác độngcủa suy thoái và rút ngắn thời gian suy thoái trong khi chúng vẫn hoàn thành nhữngchức năng kinh tế của mình.Khác với một chu kỳ kinh tế bình thường, một vấn nạn mang tính cơ cấu là vấn nạn vẫndiễn ra triền miên trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh cũng như tăng trưởng chậm.Tỉ lệ thất nghiệp cao ở khu vực dùng đồng euro là một ví dụ. Một ví dụ khác là Nhậtthất bại không tạo ra được việc làm mới hoặc không giải quyết được các khoản nợ vayngân hàng khó đòi (hiện đã lên đến hơn 1000 tỉ đô-la) trong suốt nhiều năm. Thâm hụtcán cân thanh toán triền mi ...