Danh mục

Tình trạng pháp lý của hợp đồng thông minh

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 272.19 KB      Lượt xem: 27      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu mô tả bối cảnh lịch sử của hợp đồng thông minh cũng như đưa ra khái niệm hợp đồng thông minh. Bên cạnh đó, nghiên cứu nêu ra và phân tích các quan điểm pháp lý về hợp đồng thông minh. Qua đó, nghiên cứu đưa ra sự gợi mở về một số cân nhắc pháp lý cho các nhà lập pháp ở Việt Nam đối với loại hợp đồng đặc biệt này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình trạng pháp lý của hợp đồng thông minh KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP 6. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG THÔNG MINH Nguyễn Thị Hoài(*) Tóm tắt Nghiên cứu mô tả bối cảnh lịch sử của hợp đồng thông minh cũng như đưa ra khái niệm hợp đồng thông minh. Bên cạnh đó, nghiên cứu nêu ra và phân tích các quan điểm pháp lý về hợp đồng thông minh. Qua đó, nghiên cứu đưa ra sự gợi mở về một số cân nhắc pháp lý cho các nhà lập pháp ở Việt Nam đối với loại hợp đồng đặc biệt này. Từ khóa: Hợp đồng thông minh, hợp đồng pháp lý truyền thống, tình trạng pháp lý. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Klaus Schwab (2018), cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm thay đổi cơ bản về cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau. Với quy mô, phạm vi và sự phức tạp của nó, sự biến đổi này sẽ không giống bất kỳ cuộc cách mạng nào mà nhân loại đã từng trải qua trước đây. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có nhiều đặc tính đột phá đã và đang tác động vô cùng to lớn, rộng khắp đối với mọi lĩnh vực đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu và trong mỗi quốc gia. Đặc trưng của cách mạng công (*) Công ty TNHH EVD Thiết bị và Phát triển chất lượng Email: hoainguyenk54@gmail.com 80 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP nghiệp lần thứ tư là sự hợp nhất về mặt công nghệ, nhờ đó xóa bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đem lại sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực tế. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo nên đột phá mạnh làm thay đổi mạnh mẽ toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị của xã hội loài người (Hoàng Thị Kim Quế, 2018). Một trong những công nghệ đột phá được dự đoán sẽ là công nghệ dẫn dắt cách mạng công nghiệp lần thứ tư đó là công nghệ Blockchain (công nghệ chuỗi - khối). Với đặc tính phi tập trung, minh bạch và độ bảo mật cao, blockchain được đánh giá là công nghệ mang tính cách mạng, dẫn đến sự thay đổi trong tương lai. (Bộ Khoa học và Công nghệ & Báo Điện tử VnExpress, 2018). Các công nghệ được tạo lập dựa trên công nghệ blockchain sẽ có nhiều ứng dụng hay biến thể khác nhau. Với khoảng 354.000.000 kết quả tìm kiếm trong vòng 0,39 giây (Smart contract, 2018). Smart contract hay hợp đồng thông minh - một công nghệ mới dựa trên công nghệ blockchain đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn xã hội. Riccardo de Caria (2018) cho rằng nếu tiền ảo (virtual currency) như đồng Bitcoin, đồng Ethereum hoặc đồng Ripple ít nhiều cũng có một “danh phận” trên thị trường - hoặc là phương tiện thanh toán hoặc là tài sản, thì địa vị pháp lý (legal status) của hợp đồng thông minh hiện nay vẫn đang bị bỏ ngỏ. Hiện nay, chưa có bất kỳvăn bản pháp luật nào trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam nhắc đến hay quy định về “hợp đồng thông minh”. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu về tình trạng pháp lý của hợp đồng này là vô cùng cần thiết. 2. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG THÔNG MINH 2.1. Bối cảnh lịch sử của hợp đồng thông minh Thuật ngữ “hợp đồng thông minh” lần đầu tiên được giới thiệu bởi nhà khoa học máy tính và nhà mật mã Nick Szabo khoảng 20 năm trước đây. Theo Szabo: “Hiện nay, các thể chế mới (new institutions) và những cách thức mới để chính thức hóa các mối quan hệ tạo nên các thể chế này có thể được tạo nên bằng cuộc cách mạng số hóa (digital revolution). Tôi gọi những hợp đồng mới này là “thông minh”, bởi vì chúng có nhiều chức năng hơn so với những hình thức nguyên thủy được xác lập dựa trên giấy trước đây (paper-based ancestors). Không sử dụng trí tuệ nhận tạo được ngụ ý nói đến. Hợp đồng thông minh là một tập hợp các lời hứa, được quy định ở dạng số hóa, bao gồm các giao thức trong đó các bên thực hiện những lời hứa này”. (Nick Szabo, 81 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA PHÁP LUẬT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP 2018). Theo Stuart D. & Alex B. (2018), Szabo sử dụng dấu ngoặc kép xung quanh từ “thông minh” khi so sánh các hợp đồng thông minh với các hợp đồng dựa trên giấy, và việc tránh sự thông minh nhân tạo của ông là quan trọng. Hợp đồng thông minh có thể “thông minh hơn” so với các hợp đồng bằng giấy vì chúng tự động có thể thực hiện các bước được lập trình sẵn, nhưng chúng không được xem là công cụ thông minh có thể phân tích các yêu cầu chủ quan của hợp đồng. Ví dụ cổ điển của một hợp đồng thông minh được cung cấp bởi Szabo là một máy bán hàng tự động. Khi người mua đã thỏa mãn các điều kiện của “hợp đồng” (nghĩa là nạp tiền vào máy), máy sẽ tự động thực thi các điều khoản của thỏa thuận được xác lập không bằng hình thức văn bản và cung cấp đồ ăn nhẹ. Ngày nay, hợp đồng thông minh cũng tìm thấy nguồn gốc trong hợp đồng Ricardian, một khái niệm được xuất bản vào năm 1996 bởi Ian Grigg và Gary Howland như là một phần của công việc của họ trên hệ thống thanh toán Ricardo để chuyển giao tài sản. Grigg xem hợp đồng Ricardian là cầu nối giữa các hợp đồng văn bản và mật mã. Đó là một tài liệu duy nhất và bao gồm những đặc tính sau: “a) một hợp đồng được cung cấp bởi tổ chức phát hành đến những người nắm giữ, b) trao một quyền đáng giá cho chủ thể nắm giữ và được quản lý bởi tổ chức phát hành, c) mọi người có thể đọc dễ dàng (như hợp đồng trên giấy), d) chương trình máy tính có thể đọc được (có thể phân tích như một cơ sở dữ liệu), e) chữ ký điện tử, f) chứa đựng các khóa (keys) và thông tin máy chủ, và g) đồng minh với sự định danh duy nhất và bảo mật”. (Ian Grigg, 2018). 2.2. Khái niệm hợp đồng thông minh Năm 1994, Nick Szabo nhận ra rằng sổ cái phi tập trung (decentralized legder) có thể được sử dụng cho các hợp đồng thông minh (smart contracts), hay còn gọi là hợp đồng tự thực thi (executing contracts), hợp đồng dựa trên hệ thống chuỗi khối (blockchain contracts) hoặc hợp đồng được số hóa (digital contracts). Trong s ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: