Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phân tích sở thích, thái độ của người sản xuất và người tiêu dùng đối với phát triển nuôi trồng thủy sản tốt trong nuôi tôm tại Việt Nam
Số trang: 27
Loại file: docx
Dung lượng: 1.01 MB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu "Phân tích sở thích, thái độ của người sản xuất và người tiêu dùng đối với phát triển nuôi trồng thủy sản tốt trong nuôi tôm tại Việt Nam" là đánh giá tiềm năng phát triển GAqPs trong nuôi tôm tại Việt Nam dựa trên thái độ, sở thích của người sản xuất và người tiêu dùng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phân tích sở thích, thái độ của người sản xuất và người tiêu dùng đối với phát triển nuôi trồng thủy sản tốt trong nuôi tôm tại Việt Nam CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1.1. Bối cảnh nghiên cứu 1.1.1. Bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu Nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã đóng góp một nửa sản lượng thủy sản toàn cầu, giảm áp lực khai thác thủy sản tự nhiên(Pradeepkiran, 2019), là ngành kinh tế quan trọng ở nhiều quốc gia (FAO, 2020). Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh và thiếu quy hoạch đã gây racác tác động tiêu cực lên môi trường và xã hội(FAO, 2020). Để giảm tác động tiêu cực, nhiều quốc gia đã thúc đẩy áp dụng dụng các thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (Good Aquaculture Practices GAqPs)(Sampantamit và cộng sự, 2020). Tuy nhiên, rất íttrang trại áp dụng GAqPs, và chỉ khoảng 14,2% lượng thủy sản toàn cầu đạt chứng nhận GAqPs (Potts và cộng sự, 2016). 1.1.2. Bối cảnh ngành nuôi tôm Việt Nam Việt Nam hiện có khoảng 740 nghìn ha đất nuôi tôm và sản lượng đạt 950 nghìn tấn (VASEP, 2020a). Nuôi tôm trở thành ngành kinh tế quan trọng với giá trị xuất khẩu đạt 3,9 tỷ USD vào năm 2021(VASEP, 2021). Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường, và mất an toàn thực phẩm (ATTP)đang là các vấn đề nổi cộm của ngành tôm. Để đạt được cả mục tiêu kinh tế và môi trường, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy GAqPs. Tuy nhiên, rất ít nông dân áp dụng GAqPs, hiện chỉ khoảng 2.410 ha được cấp chứng nhận VietGap (Tổng cục Thuỷ sản, 2021), và khoảng 9000 ha được cấp chứng nhận GlobalGAP, ASC, Naturland (VASEP, 2020a).Nông dân ít áp dụng GAqPs dothiếu vốn, kỹ thuật, giá tôm thấp (GIZ, 2020). 1.1.3. Bối cảnh thị trường tiêu thụ thủy sản tại Việt Nam Mức tiêu thụ tôm bình quân tại Việt Nam đạt khoảng 1,81 kg/người/năm, và có thể đạt 2,27 kg/người/năm, với tổng lượng tiêu thụnội địacó thể đạt khoảng 300 nghìn tấnvào năm 2030 (Tổng cục Thuỷ sản, 2021). Tôm là thực phẩm phổ biến trong bữa ăn của người Việt, nhưng hầu hết là tôm tươi sống, không chứng nhận, nên người tiêu dùng khó đánh giá chất lượng và tính an toàn. Trong khi, mối quan tâm đến ATTP ngày càng tăng sau các vụ bê bối về mất ATTP (Ha và cộng sự, 2019). Chứng nhận GAqPs là một giải pháp hiệu quả để khắc phục vấn đề này(Hinkes và SchulzeEhlers, 2018). Tuy nhiên, vẫn rất ít tôm nuôi có chứng nhận GAqPs được cung cấp trên thị trường Việt Nam. 1.1.4. Bối cảnh lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào phân tích đồng thời thái độ và sở thích ở hai phía cung và cầu đối với phát triển NTTS bền vững(Bergleiter và Meisch, 2015; Weitzman và Bailey, 2018), và cũng không có nghiên cứu nào tổng hợp được khung lý thuyết kết hợp các giá trị và mối quan tâm của cả người sản xuất (NSX) và người tiêu dùng (NTD)nhằmgiải thích hành vi sản xuất và tiêu dùng bền vững sản phẩm nông nghiệp. Các nghiên cứu vẫn chỉ phân tích sở thích và ước tính WTP hoặc của NSX(Ortega và cộng sự, 2013; Ngoc và cộng sự, 2016), hoặc của NTD(Cantillo và cộng sự, 2020). Do đó, việc giải thích sự chấp nhận của các bên đối với sản xuất và tiêu dùng bền vững chưa đạt hiệu quả (Mogendi và cộng sự, 2016). 1.2. Vấn đề nghiên cứu Phát triển GAqPs đòi hỏi phải có sự tham gia của cả NSXvà NTD(Bergleiter và Meisch, 2015; Mogendi và cộng sự, 2016). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá tiềm năng phát triển NTTS bền vững dựa trên sự sẵn lòng trả của hai phí cung và cầu.Ở phía cung, đa số nghiên cứu tập trung khám phá sở thích của nông dân đối với lợi ích kinh tế của GAqPs (Ortega và cộng sự, 2013; Ngoc và cộng sự, 2016), còn sở thích đối với việc bảo vệ môi trường, đảm bảo ATTP vẫn chưa được thực hiện.Ở phía cầu,nghiên cứu sở thích tiêu dùng thủy sản bền vững vẫn chưa được thực hiện ở các nước đang phát triển (Tsantiris và cộng sự, 2018), và rất ít nghiên cứu đo lường WTP cho các chứng nhận GAqPs(Cantillo và cộng sự, 2020). Bên cạnh đó, các nghiên cứu sở thích chủ yếu áp dụng đơn lẻ một trong các dạng hàm Logit điều kiện (CLM), Logit đa thức(MNL), Logit hỗn hợp (MXL), và Phân lớp tiềm ẩn (LCM). Trong đó phổ biến nhất là MXL (Olum và cộng sự, 2019; Cantillo và cộng sự, 2020), nhưng MXL cũng chỉ được ước lượng trong không gian sở thích vốn được cho là có thể làm thiên lệch các kết quả ước lượng (Train và Weeks, 2005; Hole và Kolstad, 2012). Chưa có nghiên cứu nào ước lượng đồng thời các dạng hàm trên,và ước lượng đồng thời mô hình MXL trong không gian sở thích và không gian WTP, kiểm định, đánh giá để lựa chọn dạng hàm tốt nhất, và hỗ trợ tốt hơn cho mục tiêu phân tích sở thích. Cuối cùng, đánh thái độ của NSX và NTD đối với cùng một vấn đề là các tác động tiêu cực từ NTTS truyền thống, và phát triển NTTS bền vững vẫn chưa được thực hiện (Hynes và cộng sự, 2017). Hơn nữa, ảnh hưởng thái độlên sở thích vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ ở cả phía cung (Liu và cộng sự, 2018; Olum và cộng sự, 2019), và phía cầu (Carlucci và cộng sự, 2015; Cantillo và cộng sự, 2020). Từ các xu hướng và khoảng trống tiềm năngtrên đây, nghiên cứu “Phân tích sở thích và thái độ của người sản xuất và người tiêu dùng đối với phát triển GAqPs trong nuôi tôm tại Việt Nam”là cần thiết. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát của ghiên cứu này là đánh giá tiềm năng phát triển GAqPs trong nuôi tôm tại Việt Nam dựa trên thái độ, sở thíchcủa NSX và NTD. Để đạt được mục tiêu tổng quát này,7 mục tiêu cụ thể sau cần đạt được: (1) Xây dựng khung phân tích kết hợp thái độ và sở thích của NSX và NTD đánh giá tiềm năng phát triển GAqPs trong nuôi tôm; (2) Phân tích sở thích và ước tính WTP của NSX đối với việc tuân thủ qui định bảo vệ môi trường và đảm bảo ATTP; (3) Phân tích sở thích và ước tính WTP của NTD đối với tôm nuôi được chứng nhận GAqPs; (4) Phân tích ảnh hưởng của thái độ đối với cá ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phân tích sở thích, thái độ của người sản xuất và người tiêu dùng đối với phát triển nuôi trồng thủy sản tốt trong nuôi tôm tại Việt Nam CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1.1. Bối cảnh nghiên cứu 1.1.1. Bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu Nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã đóng góp một nửa sản lượng thủy sản toàn cầu, giảm áp lực khai thác thủy sản tự nhiên(Pradeepkiran, 2019), là ngành kinh tế quan trọng ở nhiều quốc gia (FAO, 2020). Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh và thiếu quy hoạch đã gây racác tác động tiêu cực lên môi trường và xã hội(FAO, 2020). Để giảm tác động tiêu cực, nhiều quốc gia đã thúc đẩy áp dụng dụng các thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (Good Aquaculture Practices GAqPs)(Sampantamit và cộng sự, 2020). Tuy nhiên, rất íttrang trại áp dụng GAqPs, và chỉ khoảng 14,2% lượng thủy sản toàn cầu đạt chứng nhận GAqPs (Potts và cộng sự, 2016). 1.1.2. Bối cảnh ngành nuôi tôm Việt Nam Việt Nam hiện có khoảng 740 nghìn ha đất nuôi tôm và sản lượng đạt 950 nghìn tấn (VASEP, 2020a). Nuôi tôm trở thành ngành kinh tế quan trọng với giá trị xuất khẩu đạt 3,9 tỷ USD vào năm 2021(VASEP, 2021). Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường, và mất an toàn thực phẩm (ATTP)đang là các vấn đề nổi cộm của ngành tôm. Để đạt được cả mục tiêu kinh tế và môi trường, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy GAqPs. Tuy nhiên, rất ít nông dân áp dụng GAqPs, hiện chỉ khoảng 2.410 ha được cấp chứng nhận VietGap (Tổng cục Thuỷ sản, 2021), và khoảng 9000 ha được cấp chứng nhận GlobalGAP, ASC, Naturland (VASEP, 2020a).Nông dân ít áp dụng GAqPs dothiếu vốn, kỹ thuật, giá tôm thấp (GIZ, 2020). 1.1.3. Bối cảnh thị trường tiêu thụ thủy sản tại Việt Nam Mức tiêu thụ tôm bình quân tại Việt Nam đạt khoảng 1,81 kg/người/năm, và có thể đạt 2,27 kg/người/năm, với tổng lượng tiêu thụnội địacó thể đạt khoảng 300 nghìn tấnvào năm 2030 (Tổng cục Thuỷ sản, 2021). Tôm là thực phẩm phổ biến trong bữa ăn của người Việt, nhưng hầu hết là tôm tươi sống, không chứng nhận, nên người tiêu dùng khó đánh giá chất lượng và tính an toàn. Trong khi, mối quan tâm đến ATTP ngày càng tăng sau các vụ bê bối về mất ATTP (Ha và cộng sự, 2019). Chứng nhận GAqPs là một giải pháp hiệu quả để khắc phục vấn đề này(Hinkes và SchulzeEhlers, 2018). Tuy nhiên, vẫn rất ít tôm nuôi có chứng nhận GAqPs được cung cấp trên thị trường Việt Nam. 1.1.4. Bối cảnh lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào phân tích đồng thời thái độ và sở thích ở hai phía cung và cầu đối với phát triển NTTS bền vững(Bergleiter và Meisch, 2015; Weitzman và Bailey, 2018), và cũng không có nghiên cứu nào tổng hợp được khung lý thuyết kết hợp các giá trị và mối quan tâm của cả người sản xuất (NSX) và người tiêu dùng (NTD)nhằmgiải thích hành vi sản xuất và tiêu dùng bền vững sản phẩm nông nghiệp. Các nghiên cứu vẫn chỉ phân tích sở thích và ước tính WTP hoặc của NSX(Ortega và cộng sự, 2013; Ngoc và cộng sự, 2016), hoặc của NTD(Cantillo và cộng sự, 2020). Do đó, việc giải thích sự chấp nhận của các bên đối với sản xuất và tiêu dùng bền vững chưa đạt hiệu quả (Mogendi và cộng sự, 2016). 1.2. Vấn đề nghiên cứu Phát triển GAqPs đòi hỏi phải có sự tham gia của cả NSXvà NTD(Bergleiter và Meisch, 2015; Mogendi và cộng sự, 2016). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá tiềm năng phát triển NTTS bền vững dựa trên sự sẵn lòng trả của hai phí cung và cầu.Ở phía cung, đa số nghiên cứu tập trung khám phá sở thích của nông dân đối với lợi ích kinh tế của GAqPs (Ortega và cộng sự, 2013; Ngoc và cộng sự, 2016), còn sở thích đối với việc bảo vệ môi trường, đảm bảo ATTP vẫn chưa được thực hiện.Ở phía cầu,nghiên cứu sở thích tiêu dùng thủy sản bền vững vẫn chưa được thực hiện ở các nước đang phát triển (Tsantiris và cộng sự, 2018), và rất ít nghiên cứu đo lường WTP cho các chứng nhận GAqPs(Cantillo và cộng sự, 2020). Bên cạnh đó, các nghiên cứu sở thích chủ yếu áp dụng đơn lẻ một trong các dạng hàm Logit điều kiện (CLM), Logit đa thức(MNL), Logit hỗn hợp (MXL), và Phân lớp tiềm ẩn (LCM). Trong đó phổ biến nhất là MXL (Olum và cộng sự, 2019; Cantillo và cộng sự, 2020), nhưng MXL cũng chỉ được ước lượng trong không gian sở thích vốn được cho là có thể làm thiên lệch các kết quả ước lượng (Train và Weeks, 2005; Hole và Kolstad, 2012). Chưa có nghiên cứu nào ước lượng đồng thời các dạng hàm trên,và ước lượng đồng thời mô hình MXL trong không gian sở thích và không gian WTP, kiểm định, đánh giá để lựa chọn dạng hàm tốt nhất, và hỗ trợ tốt hơn cho mục tiêu phân tích sở thích. Cuối cùng, đánh thái độ của NSX và NTD đối với cùng một vấn đề là các tác động tiêu cực từ NTTS truyền thống, và phát triển NTTS bền vững vẫn chưa được thực hiện (Hynes và cộng sự, 2017). Hơn nữa, ảnh hưởng thái độlên sở thích vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ ở cả phía cung (Liu và cộng sự, 2018; Olum và cộng sự, 2019), và phía cầu (Carlucci và cộng sự, 2015; Cantillo và cộng sự, 2020). Từ các xu hướng và khoảng trống tiềm năngtrên đây, nghiên cứu “Phân tích sở thích và thái độ của người sản xuất và người tiêu dùng đối với phát triển GAqPs trong nuôi tôm tại Việt Nam”là cần thiết. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát của ghiên cứu này là đánh giá tiềm năng phát triển GAqPs trong nuôi tôm tại Việt Nam dựa trên thái độ, sở thíchcủa NSX và NTD. Để đạt được mục tiêu tổng quát này,7 mục tiêu cụ thể sau cần đạt được: (1) Xây dựng khung phân tích kết hợp thái độ và sở thích của NSX và NTD đánh giá tiềm năng phát triển GAqPs trong nuôi tôm; (2) Phân tích sở thích và ước tính WTP của NSX đối với việc tuân thủ qui định bảo vệ môi trường và đảm bảo ATTP; (3) Phân tích sở thích và ước tính WTP của NTD đối với tôm nuôi được chứng nhận GAqPs; (4) Phân tích ảnh hưởng của thái độ đối với cá ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luận án Tiến sĩ Kinh tế Kinh tế phát triển Người sản xuất nuôi trồng thủy sản Người tiêu dùng thủy sản Phát triển nuôi trồng thủy sản Nuôi tôm tại Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiểu luận Kinh tế phát triển so sánh: Kinh tế Trung Quốc
36 trang 304 0 0 -
228 trang 272 0 0
-
38 trang 251 0 0
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thú y trên địa bàn thành phố Hà Nội
25 trang 245 0 0 -
27 trang 207 0 0
-
101 trang 165 0 0
-
Bài giảng Kinh tế phát triển: Chương 3 - PGS .TS Đinh Phi Hổ
35 trang 163 0 0 -
13 trang 156 0 0
-
27 trang 153 0 0
-
29 trang 147 0 0