Danh mục

Tống Duy Tân

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 157.71 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tống Duy Tân (1837-1892), là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887[1]1892) trong lịch sử ViệtNam. Thân thế & sự nghiệp Tống Duy Tân là người làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm Canh Ngọ (1870), ông đỗ cử nhân, đến năm Ất Hợi (1875), thì đỗ tiến sĩ. Bước đầu, ông được bổ làm Tri huyện, sau làm Đốc học Thanh Hóa rồi Thương biện tỉnh vụ. Hưởng ứng dụ Cần Vương.Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần Vương, Tống Duy Tân được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tống Duy Tân Tống Duy Tân Tống Duy Tân (1837-1892), là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887[1]-1892) trong lịch sử ViệtNam. Thân thế & sự nghiệp Tống Duy Tân là người làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.Năm Canh Ngọ (1870), ông đỗ cử nhân, đến năm Ất Hợi (1875), thì đỗ tiến sĩ. Bướcđầu, ông được bổ làm Tri huyện, sau làm Đốc học Thanh Hóa rồi Thương biện tỉnhvụ. Hưởng ứng dụ Cần Vương Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần Vương, Tống Duy Tân được vua HàmNghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa. Sau đó, ông tham gia xây dựngchiến khu Ba Đình. Năm 1886, Tống Duy Tân và Cao Điển[2] nhận lệnh của thủ lĩnh Đinh CôngTráng đến Phi Lai (Hà Trung, Thanh Hóa) lập căn cứ, nhằm hỗ trợ cho căn cứ chính làBa Đình. Ngoài căn cứ Phi Lai trong sự nghiệp chung, Tống Duy Tân còn chuẩn bịlực lượng và căn cứ kháng Pháp ngay tại quê hương mình, đó là căn cứ Hùng Lĩnh,nằm ở vùng thượng nguồn sông Mã thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Đầu năm 1887, đông đảo quân Pháp kéo đến đàn áp dữ dội phong trào CầnVương ở tỉnh này. Căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ. Sau đó,các thủ lĩnh lần lượt hy sinh (Đinh Công Tráng, Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt), tự sát(Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại), hoặc đi tìm phương kế khác (Trần Xuân Soạn). Trước tình thế hiểm nguy, Tống Duy Tân bèn mang quân chạy lên căn cứ HùngLĩnh, lập nên một trung tâm kháng chiến mới. Các cộng sự cùng theo có Cao Điển,Cầm Bá Thước, Hà Văn Nho,...Tuy nhiên, nghĩa quân Hùng Lĩnh chỉ mở được vàitrận tập kích, thì bị thiếu tá Térillon dẫn quân đến vây đánh rất gắt. Xét thấy lực lượng Hùng Lĩnh vừa gầy dựng bị cô thế và yếu sức hơn, TốngDuy Tân bèn đi ra Bắc rồi Trung Quốc để gặp gỡ các sĩ phu yêu nước, tìm nguồn hỗtrợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thìTống Duy Tân đã gặp Tôn Thất Thuyết tại Quảng Đông, và ông đã nghe theo lời vịtướng này trở về Thanh Hóa để tiếp tục công cuộc kháng Pháp [3]. Tiếp tục công cuộc kháng Pháp Đầu năm 1889, Tống Duy Tân về đến quê nhà. Sau khi tập hợp lại lực lượng,thì ông trở thành người chỉ huy chính của phong trào kháng Pháp tại Hùng Lĩnh ởthượng nguồn sông Mã (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Từ nơi đó, ông cùng hai cộng sự là Cao Điển và Cầm Bá Thước[4] cho quânmở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã, đến hợp đồngchiến đấu với Đề Kiều-Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu sông Đà, và với Phan Đình Phùng ởvùng rừng núi Nghệ An-Hà Tĩnh. Tổ chức của các ông khá quy củ. Mỗi huyện có một cơ binh, lấy tên huyện đặttên cho đơn vị, ví dụ như Nông Thanh cơ (tức cơ Nông Cống ở Thanh Hóa), TốngThanh cơ (tức cơ Tống Sơn ở Thanh Hóa),... Hay tin, ngày 8 tháng 10 năm 1889, quân Pháp từ đồn Nông Cống đi đến dòxét thì chạm súng với nghĩa quân Hùng Lĩnh. Ngày 22 tháng 10, quân Pháp từ ThanhHóa lại kéo đến tấn công. Sau ngày kịch chiến, Tống Duy Tân cho quân rút về phíaBắc Phố Cát (Thạch Thành). Cuối tháng này, nhờ có những toán quân cũ của tướngTrần Xuân Soạn tìm đến tham gia, nên Tống Duy Tân lại cho quân đẩy mạnh hoạtđộng trong các huyện Yên Định, Thọ Xuân, Nông Cống. Sau đó, đôi bên còn giaochiến thêm nhiều trận nữa, đáng kể là trận Vạn Lại (Vạn Ninh-Thọ Xuân) ngày 30tháng 11 và trận Yên Lược (Thọ Xuân) vào ngày 2 tháng 12 cùng năm. Thấy công cuộc thôn tính nước Việt bị cản trở, thực dân Pháp liền tăng cườnglực lượng để dập tắt phong trào do Tống Duy Tân làm thủ lĩnh. Trước lực lượng đốiphương đông đảo, lại được trang bị vũ khí mạnh, ông phải cho quân vừa chống đỡ,vừa rút dần lên vùng miền núi ở phía Tây Thanh Hóa. Trong năm 1890, Tống Duy Tân đã tổ chức tập kịch nhiều trận. Đáng kể hơncả là trận thắng lớn ở Vân Đồn (Nông Cống) và ở Yên Lãng (Xuân Yên-Thọ Xuân)bên tả ngạn sông Chu vào tháng 3 năm 1890, và trận Thanh Khoái xảy ra vào ngày 29tháng 5 năm 1890. Bị thiệt hại đáng kể, quân Pháp bèn tập trung lực lượng mở cuộctruy quét quy mô nhằm tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh. Kể từ đây trở đi, Lực lượng của Tống Duy Tân bước vào thời kỳ chiến đấy gaygo và gian khổ hơn. Nhất là sau trận Thanh Khoái, nghĩa quân ông lâm vào tình thế bịcô lập nên bị thiếu thốn mọi mặt. Đầu năm 1891, Tống Duy Tân cho chuyển quân từ An Lẫm (châu ThườngXuân) lên Lang Vinh (một làng Mường ở châu Thường Xuân). Hay tin, quân Phápliền tổ chức tấn công. Mặc dù chống trả quyết liệt, nhưng cuối cùng ông cũng phải dẫntàn quân rút về Hòn Mông, rồi về vùng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân (tức quêhương và là căn cứ của Cầm Bá Thước). Tháng 3 năm 1892, từ sông Đà, Đốc Ngữ dẫn quân vượt sông Mã vào ThanhHóa. Sau khi bàn bạc, Tống Duy Tân và Đốc Ngữ cùng hợp quân đi tấn công quânPháp ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa).Mặc dù thu được một số thắng lợi, nhưng cũng không thể nào cứu vãn ...

Tài liệu được xem nhiều: