Theo WHO, tỷ lệ trầm cảm (TC) trong dân số nếu tính ở thời điểm nghiên cứu là 5% (nữ 5-9%, nam 2-3%), nếu tính suốt cuộc đời là 10% (nữ 10-25%, nam 5-12%). Riêng ở nước ta 3-5% (2007). Nguyên nhân đến nay vẫn chưa lý giải thật đầy đủ nhưng thường cho là do thiếu hụt chất dẫn truyền, do rối loạn một số hormone. Thuốc trầm cảm khó dùng, dùng chưa đúng làm cho hiệu quả điều trị không cao, thậm chí gây tác dụng đảo ngược, tai biến.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trầm cảm và việc dùng thuốc Trầm cảm và việc dùng thuốc Ảnh minh họa (Gettyimages). Theo WHO, tỷ lệ trầm cảm (TC) trong dân số nếu tính ở thời điểmnghiên cứu là 5% (nữ 5-9%, nam 2-3%), nếu tính suốt cuộc đời là 10% (nữ10-25%, nam 5-12%). Riêng ở nước ta 3-5% (2007). Nguyên nhân đến nayvẫn chưa lý giải thật đầy đủ nhưng thường cho là do thiếu hụt chất dẫntruyền, do rối loạn một số hormone. Thuốc TC khó dùng, dùng chưa đúnglàm cho hiệu quả điều trị không cao, thậm chí gây tác dụng đảo ngược, taibiến. Nguyên nhân dẫn đến bệnh TC Do thiếu hụt chất dẫn truyền Các tế bào thần kinh muốn “hợp tác” cùng làm một việc nào đó thì phảiliên lạc với nhau bằng cách dẫn truyền thông tin từ tế bào này sang tế bào khác.Muốn thế, phải có các chất dẫn truyền như: noradreanlin, dopamin, serotonin. Ởgiữa đuôi của tế bào này và đầu của tế bào kia có một khoảng trống gọi là synap(khớp thần kinh). Tế bào muốn liên lạc với tế bào kế tiếp thì phải tiết các chất dẫntruyền vào synap, cứ như thế hàng chuỗi tế bào sẽ tiết ra chất dẫn truyền, tạo thànhmột đường dẫn truyền thần kinh thông suốt. Ở người TC có sự thiếu hụt các chấtdẫn truyền. Do rối loạn một số hormone Corticosteroid tiết ra nhiều buổi sáng, giảm dần trong ngày ở người bìnhthường nhưng tăng cao cả ngày ở người TC. Progesteron tăng 10 ngày trước khicó kinh, estrogen, progesterone giảm đáng kể sau sinh, estrogen giảm đột ngột thờikỳ đầu mãn kinh; trong những giai đoạn ấy, thường rơi vào trạng thái TC. Chưa rõ quan hệ nhân quả. Do thiếu hụt chất dẫn truyền, rối loạn hormonesinh ra TC hay ngược lại. Điều chắc chắn, các chất này có ảnh hưởng lớn đến TC.Tuy nhiên, làm giảm sự thiếu hụt chất dẫn truyền sẽ làm giảm trạng thái TC nhưngdùng liệu pháp hormone lại không đạt được kết quả này. Đa số cho TC là do thiếuhụt chất dẫn truyền. Sai sót thường gặp trong dùng thuốc TC có các triệu chứng về tinh thần thể chất. Người bệnh không thấy, khônghiểu các triệu chứng tinh thần, dễ thấy những triệu chứng thể chất: ăn không ngon,nhạt nhẽo, chán ăn, bỏ ăn, sụt cân; mệt mỏi, trì trệ; có cảm giác đau ngực, đau đầu,đau nhức (nhưng không thấy tổn thương thực thể), khó ngủ (khó vào giấc, thứcnhiều lần, không ngủ lại được); suy giảm tình dục hay có các triệu chứng thể lýđảo ngược (ăn nhiều, ngủ nhiều, tăng cân, kích động). Họ cho là mình bị suynhược, qui các triệu chứng tinh thần do suy nhược tạo nên, rồi tự ý dùng thuốc bổdưỡng, kích thích thần kinh (vitamin + aminoacid, pyracetam, caffein). Người bệnh ngại khám ở chuyên khoa tâm thần. Thầy thuốc không chuyênkhoa, không khám kỹ, có thể chẩn đoán nhầm là suy nhược thần kinh, cho dùngthuốc ngủ an thần. TC có nhiều mức (nhẹ, vừa, nặng), nhiều dạng (TC, hưng TC, rối loạn ưutư lan rộng, rối loạn ám ảnh bức bách, hoang tưởng...), có thể thay đổi mức, dạngtheo thời gian. Mỗi trường hợp dùng một loại thuốc thích hợp (xem phần dưới).Do không khám định kỳ nên có thể dùng thuốc không đúng, dẫn đến kết quả đảongược hay làm bệnh nặng thêm. Có nhiều yếu tố làm xuất hiện TC (tang tóc, thất bại, thất tình…) nhưngkhông phải trước các yếu tố ấy, ai cũng bị TC! Khi nhẹ, dùng liệu pháp tâm lý cóthể qua được. Song khi thực sự bị bệnh phải dùng thuốc. Có người quá coi nặng.Đến tâm lý liệu pháp, không dùng thuốc, bệnh không khỏi lại càng nặng lên. Thuốc chỉ hiệu quả khi dùng đủ liều, đúng thời gian, kéo dài, có củng cố.Có người thiếu kiên trì, sợ độc, chưa khỏi hẳn đã bỏ thuốc đột ngột làm bệnh trởlại nặng hơn, không dùng duy trì dẫn đến bệnh dễ tái phát. Thuốc và cách dùng Nhóm tricyclic Gọi là TC 3 vòng (tri=3, cyclo=vòng). Chia thành 3 phân nhóm: Phân nhóm tricyclic có tính an thần: amitriphtylin, clomipramin,trimipramin, dothiepin, doxepin. Dùng cho người bồn chồn lo lắng, có kích động. Phân nhóm tricyclic không có tính an thần: amoxapin, desipramin,imipramin, lofepramin, nortriphytlin. Dùng cho người bồn chồn lo lắng nhưng không có kích động. Phân nhóm tricyclic có tính kích thích: protriptylin. Dùng cho người bồnchồn lo lắng có mệt mỏi, trì trệ. Tricyclic ngăn không cho các chất dẫn truyền bị thu hồi về các tế bào đãtiết ra chúng, làm tăng lượng các chất này trong synap, tăng tính dẫn truyền. Dùngcho các trạng thái TC vừa và nặng mà triệu chứng chính là khó ngủ, ăn khôngngon. Nhóm ức chế thu hồi chọn lọc serotonin Thuốc ức chế thu hồi chọn lọc serotonin (SSRI = selective serotoninreuptake inhibitor) ngăn cản chọn lọc sự thu hồi serotonin về tế bào đã tiết ra nó,làm tăng lượng serotonin trong synap, tăng tính dẫn truyền. SSRI gồm: fluoxetin(prozac) paroxetin (seroxat) fluvoxamin (faverin), setralin (lustral). Khi mới ra đời, SSRI được coi là thuốc có công hiệu cao, ít độc hơntricyc ...