Danh mục

Trang phục lực lượng vũ trang cách mạng - Trang phục quân đội

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 169.85 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (14 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trang phục lực lượng vũ trang cách mạngTrang phục quân đội nhân dân Việt Nam Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 22-12-1944 tại chiến khu Việt Bắc, Đội Võ trang Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam được thành lập. Đây là những người chiến sĩ cách mạng đã sớm giác ngộ, với quân số 34 người, những người đầu tiên của lực lượng võ trang chính qui của Đảng. Dù cùng chung một lý tưởng nhưng khác nhau về thành phần xuất thân, nghề nghiệp v.v..., lại do hoàn cảnh lúc ấy mỗi người...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trang phục lực lượng vũ trang cách mạng - Trang phục quân đội Trang phục lực lượng vũ trang cách mạng Trang phục quân đội nhân dân Việt Nam Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 22-12-1944 tạichiến khu Việt Bắc, Đội Võ trang Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam đượcthành lập. Đây là những người chiến sĩ cách mạng đã sớm giác ngộ, với quân số34 người, những người đầu tiên của lực lượng võ trang chính qui của Đảng. Dùcùng chung một lý tưởng nhưng khác nhau về thành phần xuất thân, nghề nghiệpv.v..., lại do hoàn cảnh lúc ấy mỗi người phải có một việc làm nào đó vừa để sinhsống, vừa để che mắt kẻ thù nên trang phục mỗi người một vẻ: người mặc quầnáo chàm, người mặc quần áo nâu, người mặc com lê, người đi hài xảo, người đigiày vải, người đi giày da v.v...Vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, tình hìnhtrang phục của quân đội này biến chuyển tùy thuộc sự ủng hộ của nhân dân vàtùy thuộc những chiến lợi phẩm thu được của địch sau mỗi trận đánh thắng. Dođó ngoài quần áo thường, có khi các đội viên còn mặc cả quần áo lính khố xanh,lính khố đỏ, quần áo lính hoặc võ quan Pháp, Nhật... Hiện tượng trên kéo dài cho tới ngày Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Để ra mắtnhân dân Thủ đô Hà Nội, chào mừng ngày lễ Độc lập (2-9-1945). Đội Võ trangtuyên truyền Giải phóng quân từ chiến khu về Hà Nội đã được trang bị đồng bộ. Nam: Áo sơ mi cộc tay, vạt áo bỏ trong quần. Mặc quần soóc, thắt lưng dato bản. Chân đi giày da ngắn cổ. Đội mũ cát màu trắng. Nữ: Áo sơ mi cộc tay, có túi ở ngực, thắt lưng da to bản. Mặc quần vải màuđen, gấu quần túm gọn. Đi giày ba ta. Tóc cặp gọn. Đội mũ rộng vành màu chàm. Đã giành được chính quyền, nhưng vấn đề trang phục quân đội vẫn chưađược qui định, sự trang bị tùy thuộc khả năng của từng đơn vị, từng địa phương.Riêng ở Hà Nội, các chiến sĩ Vệ quốc quân (đa số là tiểu tư sản học sinh, côngnhân) mặc rất đẹp. Áo sơ mi, quần bó ống, đi giày da cổ thấp. Đặc biệt là có loạimũ ca lô vải màu vàng hay bằng dạ tím than, đội lệch trên đầu. Trước mũ đínhmột ngôi sao vàng trên nền đỏ tròn. Tự vệ chiến đấu thành đeo sao vàng, nền đỏvuông (đều bằng vải hoặc nỉ màu đỏ). Đối với cán bộ chỉ huy, quân hiệu còn thêuthêm một vành chỉ màu vàng cho các cấp tiểu đội trưởng, trung đội trưởng, đạiđội trưởng từ cấp chi đội trưởng thêu bằng chỉ kim tuyến (vàng). Cấp phó, thêumột vành bằng chỉ màu trắng, từ cấp chi đội phó thêu bằng chỉ ngân tuyến (bạc). Ngoài ra, còn có cấp hiệu hình chữ nhật (5cm x 2cm) gài ở túi ngực bên trái.Cấp hiệu, nền bằng vải màu đỏ, ở giữa thêu sao màu trắng. Cấp cán bộ tiểu đội:một sao, trung đội: hai sao, đại đội: ba sao, chi đội: bốn sao. Cấp trưởng, thêuvành vàng, cấp phó thêu vành trắng. 19-12-1946, ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.Các lực lượng vũ trang tản vào dân, dựa vào dân, mặc như dân. Ở miền Bắc,miền Trung chủ yếu mặc vải nâu: áo cánh có hai túi, quần ta buộc túm ống (do đócó tên gọi bộ đội là Vệ túm. Cũng có người cho rằng do một số chiến sĩ rách áo,rách quần, chưa vá kịp, lấy dây buộc túm lại, nên có tên gọi như vậy). Có ngườimặc sơ-mi, quần Âu. Mũ nón, giày dép có gì dùng vậy. Có người đi chân đất.Cán bộ mặc thêm áo blu-dông, áo vét Ca-na-điêng, áo va-rơi... tùy theo khả năngtự túc. Chiến sĩ khu V, mặc áo cánh, quần ta màu tro xám, bằng vải sợi bông gọilà vải Sita. Miền Nam thường mặc áo bà ba đen, quần đùi, do đặc điểm thời tiếtnóng và do phải hoạt động trong địa hình Nam Bộ nhiều kênh rạch, sình lầy. Cuối năm 1947, xuất hiện chiếc áo chấn thủ trong quân đội. Áo chấn thủ rấtđơn giản, ngắn đến thắt lưng, cổ, tròn, không có tay áo. Gồm có hai mảnh: mảnhtrước và mảnh sau, nối liền nhau ở cạnh sườn và một bên vai. Còn cạnh sườn vàtrên vai bên kia thì cài cúc. Mỗi mảnh áo may hai lần vải, ở giữa nhồi bông, chầnhình quả trám. Áo gọn gàng, giữ nhiệt tốt. Những năm kháng chiến gian khổhiếm bông, có thời kỳ phải dùng lông vịt hay vỏ cây sui đập rập, phơi khô thaybông. Cúc, khuy cũng thiếu, phải dùng dây vải buộc hoặc làm cúc bằng giấy éptẩm sơn thay thế. Tấm áo chấn thủ đã trở thành một điển hình khi ta nói tới anh bộ đội thời kỳkháng chiến chống Pháp. Thêm vào đó, không thể không nhắc tới chiếc mũ đanbằng tre, hoặc làm bằng lá cọ nhưng có đặc điểm là bọc vải chùm cả vành mũ,bên ngoài phủ một tấm lưới có dắt rải rác những miếng vải dù hoa xé nhỏ đểngụy trang. Có trường hợp mũ chỉ bọc vải dù hoa. Dưới chân anh bộ đội là đôidép lốp cao su đen (thường gọi tắt là dép cao su). Đôi dép cao su này từ khu Tư trở ra được gọi là dép Bình Trị Thiên. Đây làmột sáng tạo có giá trị lịch sử, giải quyết được đồ đi cho quân, dân ta suốt thờigian kháng chiến chống Pháp và mãi về sau này. Chiến sĩ ta lấy lốp xe, đo châncắt thành đế dép, dùi tám lỗ để xỏ quai bằng xăm ô tô (cao su đen): hai quai chéophía trên, hai quai ngang phía dưới làm quai hậu và quai vàng. Bề ngang các quaikhoảng 1 cm. Một đôi ...

Tài liệu được xem nhiều: