Danh mục

TRANG TỬ VÀ NAM HOA KINH Phần 1 - Chương 1: Thời đại và cuộc sống

Số trang: 23      Loại file: pdf      Dung lượng: 378.79 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 16,000 VND Tải xuống file đầy đủ (23 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

TRANG TỬ VÀ NAM HOA KINHPhần 1 - Chương 1: Thời đại và cuộc sống THỜI ĐẠITrang tử kém Mạnh tử khoảng mười tuổi, sống ở giữa thời Chiến Quốc (-403 221). Ông sanh vào khoảng -360, trên 40 năm sau khi thời đại loạn đó bắt đầu, và 60 năm sau ông mất, nó cũng chấm dứt. Vậy ông chứng kiến được hầu hết những biến chuyển lớn của thời đó: Tần dùng Vệ Ưởng để biến pháp mà hùng cường lên, xưng bá (-343) rồi xưng vương (-325); sáu nước kia (Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ, Tề, Sở) bèn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TRANG TỬ VÀ NAM HOA KINH Phần 1 - Chương 1: Thời đại và cuộc sống TRANG TỬ VÀ NAM HOA KINH Phần 1 - Chương 1: Thời đại và cuộc sống THỜI ĐẠI Trang tử kém Mạnh tử khoảng mười tuổi, sống ở giữa thời Chiến Quốc (-403 -221). Ông sanh vào khoảng -360, trên 40 năm sau khi thời đại loạn đó bắt đầu, và60 năm sau ông mất, nó cũng chấm dứt. Vậy ông chứng kiến được hầu hết nhữngbiến chuyển lớn của thời đó: Tần dùng Vệ Ưởng để biến pháp mà hùng cường lên,xưng bá (-343) rồi xưng vương (-325); sáu nước kia (Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ, Tề, Sở) bèn hợp tung để chống Tần (-333), nhưng phe hợp tung mau tan (-332), Trương Nghi đề nghị thuyết liên hoành (-331) để liên hiệp lục quốc mà tôn Tần,do đó mà Tần lại càng mạnh thêm, thắng được Nguỵ, Hàn, Sở, rồi xưng đế (-288), diệt Tống, ức hiếp Triệu. Trước khi mất, chắc Trang tử đã đoán được xu thế của thời đại; thế nào rồi Tần cũng sẽ thay Chu, làm thiên tử mà thống nhất Trung Quốc.Như trong Chiến Quốc Sách trang 10, chúng tôi đã nói, sự dùng năm -403 để phânchia hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc không dựa trên một biến cố nào quan trọng (năm đó chỉ là năm lên ngôi của Uy Liệt vương nhà Chu), mà lịch sử và xã hộiTrung Hoa suốt hai thời kì Xuân Thu và Chiến Quốc biến chuyển liên tục, khônghề gián đoạn, từ chế độ phong kiến tới chế độ quân chủ chuy ên chế, từ tình trạng phân li tới tình trạng thống nhất. Tuy nhiên, xét chung, chúng ta vẫn thấy hai thời đó có nhiều điểm khác nhau: 1. Xuân Thu là thời các vị bá chủ (như vua Hoàn công nước Tề) mượn uy danhcủa Thiên tử, tức vua Chu mà ra lệnh các chư hầu; Thiên tử thời đó tuy không cóquyền, nhưng còn danh phận, các vị bá chủ chưa dám khinh; thời Chiến Quốc, tráilại, các vua nước lớn như Tần, Tề, Nguỵ, Sở… đều xưng vương, chẳng coi Thiên tử ra gì cả; 2. Thời Xuân Thu, chế độ chính trị chỉ biến chuyển lần lần thôi, vì các vua chúacòn trọng dư luận ít nhiều; qua thời Chiến Quốc, vua các cường quốc không đoái gì tới cổ pháp, cổ lễ, can đảm làm những cuộc cách mạng về pháp độ, như cuộc biến pháp của Vệ Ưởng năm -359 đời Tần Hiếu công;3. Thời Xuân Thu giới quý tộc còn nắm được nhiều quyền lớn, cha truyền con nối,qua thời Chiến Quốc, đặc quyền đó gần đó gần như hoàn toàn bị diệt, và rất nhiều người trong giới bình dân lên làm khanh tướng, như Tô Tần, Trương Nghi…;4. Chiến tranh trong thời Xuân Thu tuy nhiều nhưng không kịch liệt, còn giữ được cái luật “quân tử” không giết kẻ bại; thời Chiến Quốc, chiến tranh tàn khốc hơnnhiều, có trận chết hàng vạn người (sát nhân doanh dã, sát nhân doanh thành), cho nên dân tình cực kì điêu đứng; 5. Phép “tỉnh điền” không rõ bị phế bỏ lần lần từ thời nào, nhưng chắc chắn làcuộc biến pháp của Vệ Ưởng, thời Chiến Quốc, được nhiều nước khác theo, Mạnh tử hô hào tái lập nó mà không được; 6. Thời Xuân Thu, trọng tâm của kinh tế là nông nghiệp; qua thời Chiến Quốc, công và thương phát đạt mạnh, địa vị mỗi ngày một quan trọng hơn, mà các thị trấn như Hàm Dương (Tần), Lâm Tri (Tề), Hàm Đan (Triệu) rất phồn thịnh; và bọn cự thương như Lã Bất Vi có thể dùng thế lực đồng tiền xâm nhập chính trị; 7. Quan trọng nhất là sự phát triển về tư tưởng. Trong thời Xuân Thu, từ khi Khổng tử sanh (-551) tới khi Liệt tử mất (-349), suốt hai trăm năm chỉ có mươi triết gia: Khổng tử, Tử Tư, Mặc tử, Dương tử, Lão Đam, Quan Doãn, Liệt NgựKhấu; qua thời Chiến Quốc, số triết gia có tiếng tăm lên tới trên hai chục nhà, ấy là chưa kể các chính trị gia, biện sĩ, thuật sĩ. Theo Sử kí của Tư Mã Thiên, bọn du thuyết được Tề Tuyên vương tặng chức thượng đại phu, chỉ bàn suông chứ không dự vào việc chính trị, như Trâu Diễn, Thuần Vu Khôn, Tiếp tử, Hoàn Uyên… tới 76 người, còn số học sĩ ở Tề có tới mấy trăm ngàn người (chương 46: Điền Hoàn thế gia). Nguyên nhân chính là thời đó đại loạn, người nào cũng có tư tưởng cũng muốnđưa ra một thuyết để cứu đời; mà các vua chúa nào muốn làm bá chủ Trung Quốccũng tôn trọng kẻ sĩ, mời họ làm cố vấn. Do đó, ngôn luận được hoàn toàn tự do. Đúng là thời “trăm hoa đua nở”; cho tới nay, trên hai ngàn năm sau, Trung Hoa không còn được thấy lại cảnh phồn thịnh đó nữa.Dĩ nhiên, mỗi triết gia chỉ nắm được một phần chân lí, như tác giả chương Thiên hạ, phần Tạp thiên của Nam Hoa kinh đã nhận định: “… học phái hoặc kĩ thuật của trăm nhà đều có sở trường, thời cơ thích hợp thìđều có chỗ dùng được đấy, nhưng không bao quát được hết: họ chỉ là những nhàthiên kiến… Họ mổ xẻ cái thuần mĩ của trời đất, phân tích cái lí của vạn vật, cáinhất quán của cổ nhân… lập ra những phương thuật riêng. Buồn thay! Học pháicủa bách gia cứ phân tán ra trăm ngả tới cực đoan mà không trở về cái gốc… Đạo thuật trong thiên hạ sắp bị chẻ nhỏ ra rồ ...

Tài liệu được xem nhiều: