Danh mục

TRANH LÀNG SÌNH - NÉT ĐẸP CỦA VĂN HOÁ DÂN GIAN XỨ HUẾ

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 142.59 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong số những làng tranh dân gian còn tồn tại đến ngày hôm nay, thì Làng Sình được xem là một trong những làng mà nghề làm tranh vẫn gắn liền với sinh hoạt tín ngưỡng của dân gian hiện nay. Làng Sình hay còn gọi là làng Lại Ân thuộc xã Phú Mậu - huyện Phú Vang, cách thành phố Huế khoảng 9km về phía Đông. Nằm trên điểm hợp lưu giữa con sông Bồ với sông Hương rất thuận tiện cho việc giao thương, làng Sình không chỉ nổi danh với nghề làm tranh, mà còn là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TRANH LÀNG SÌNH - NÉT ĐẸP CỦA VĂN HOÁ DÂN GIAN XỨ HUẾ TRANH LÀNG SÌNH - NÉT ĐẸP CỦA VĂN HOÁ DÂN GIAN XỨ HUẾ Trong số những làng tranh dân gian còn tồn tại đến ngày hôm nay, thì Làng Sình được xem là một trong những làng mà nghề làm tranh vẫn gắn liền với sinh hoạt tín ngưỡng của dân gian hiện nay. Làng Sình hay còn gọi là làng Lại Ân thuộc xã Phú Mậu - huyện Phú Vang, cách thành phố Huế khoảng 9km về phía Đông. Nằm trên điểm hợp lưu giữa con sông Bồ với sông Hương rất thuận tiện cho việc giao thương, làng Sình không chỉ nổi danh với nghề làm tranh, mà còn là một làng cổ nổi tiếng với chùa Sùng Hoá từng được ghi trong Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An vào thế kỷ XVI. Hàng năm vào ngày 10 tháng giêng, làng còn nổi tiếng với có lễ hội vật, có nghề làm hương, làm hạt bỏng để cúng. Có lẽ do những truyền thống này mà nghề in tranh mộc bản ở Sình, ngay từ khi ra đời đã không thuần túy là dòng tranh phục vụ cho các thú chơi tao nhã, mà chủ yếu là nhu cầu tín ngưỡng, dùng để thờ để hóa trong các lễ cầu an, giải hạn. Với địa thế giao thương thuận tiện, tranh Sình dường như đã chiếm lĩnh thị trường khắp các tỉnh miền Trung từ Huế đến Quảng Trị, Quảng Nam - Đà Nẵng đến tận Quảng Ngãi. Tuy nhiên phổ biến nhất vẫn là ở Huế, thậm chí chúng còn xuất hiện trong cung cấm trong các lễ cúng tế cầu tự dân gian do các bà tổ chức một cách kín đáo bên cạnh các nghi lễ chính thống cung đình1 . Xuất hiện, tồn tại, thăng trầm trong mấy trăm năm qua tranh làng Sình đã cộng nhập những dấu ấn lịch sử và những giá trị văn hoá nhân văn của cộng đồng làng xã. Khác với dòng tranh Đông Hồ có chủ đề quán xuyến hầu hết mọi mặt của đời sống và tinh thần của cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ với lối biểu đạt trào lộng và dí dỏm, tranh Sình dường như chỉ tập trung vào hai công năng: thờ và cúng. Về đề tài tranh Sình chia làm ba thể loại chính: tranh nhân vật, tranh súc vật và tranh đồ vật. Tranh nhân vật thường là tranh thế mạng hoặc các tranh trang ông, trang bà, trang bếp (tranh bổn mạng) là những vị thần bổn mạng bảo trợ cho gia chủ loại này thường dán trên tường cuối năm mới đốt, còn tất cả tranh khác đều đốt hóa cùng với vàng bạc hàng mã khi cúng xong. Tranh súc vật là những bức in hình 12 con giáp cúng cho tuổi của mỗi gia chủ hoặc tranh các loài gia súc trâu, bò, heo, ngựa treo trong các chuồng trại nuôi gia súc để cầu cho vật nuôi tránh được dịch bệnh, hay mong cho nghề nghiệp được hưng vượng, tranh các linh thú như voi, cọp thì dùng dâng cúng nơi các miếu cầu mong cho chúng không giáng họa cho người. Tranh đồ vật là tranh in hình các loại áo quần, khí dụng như cung tên hoặc các loại tế phẩm như áo ông, áo bà, áo binh có in hoa văn trang trí. Về kỹ thuật và chất liệu, tranh Sình cũng giống như đa phần các dòng tranh dân gian xưa, như Đông Hồ, Hàng trống với lối in tranh mộc bản. Bao gồm các công đoạn khá cầu kỳ: khắc bản gỗ, in tranh trên giấy điệp, rồi tô màu. Mỗi công đoạn này lại được hợp thành từ rất nhiều nguồn khác nhau. Như để có giấy để in tranh người ta phải đi cất giấy, ở các vùng khác đến, hoặc từ Bắc vào. Nguyên liệu để quét hồ điệp cũng phải đi khai thác ở các vùng đầm phá nước lợ ở ven biển như đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, trải dọc theo bờ biển Thừa Thiên Huế, sau đó đem về giã, rồi hồ quét. Làng Sình ngày xưa còn được gọi là làng làm giấy bồi hồ điệp, không chỉ dùng cho nghề in tranh mà còn làm cả những công việc khác. Màu in thì đa phần dùng những nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên, sau đó quá một quá trình xử lý rất nghiêm ngặt để làm sao khi màu được tô lên tranh không bị phai. Việc lấy những nguyên liệu màu sắc này cũng có nét giống với tranh Đông Hồ, nhưng cũng bao hàm cả những sản vật địa phương, hoặc kinh nghiệm dân gian để có được những sắc thái khác nhau. Nếu những sắc của tranh Đông Hồ thường chỉ có vài màu cơ bản, bằng cách chồng màu của các loại ván in khác nhau khiến cho màu của tranh khá phong phú. Thì tranh làng Sình, lại giống với tranh Hàng Trống là chỉ in một bản khắc nét đen, sau đó màu được tô vào các chi tiết. Cách tô màu này thường là tô mảng phẳng, và tô một lần, chứ ít khi được tô chồng màu. Nó cũng không tô theo kiểu lấy đậm nhạt bằng việc hòa thêm nước cho các màu để tạo bóng nổi như ở tranh Hàng Trống. Chính đặc điểm này, khiến cho màu của tranh làng Sình, phải pha chế nhiều sắc hơn. Như màu vàng, nếu tranh Đông Hồ chỉ có vàng hoa hòe, thì tranh Sình còn có thêm vàng từ là cây Đung. Hai thứ màu này trộn lẫn với nhau tạo được một sắc vàng đằm hơn và cũng bền hơn. Màu đỏ thì làm từ vỏ cây dương liễu và lá bàng, hoặc gỗ cây trâm chẻ nhỏ, nấu với nước cho đến khi cô lại đặc sánh. Màu lục là hỗn hợp của hai loại nước được sắc từ lá bông ngọt và lá mối. Màu tím được chế từ hạt mồng tơi giã nhỏ, vắt thành nước phèn pha với phèn chua để giữ màu. Màu chàm làm từ lá cây tràm ngâm vôi cho rữa nát, đánh cho tơi và nổi bọt, rồi vớt lấy bọt đó lọc kỹ, cho nước vào và cô đặc lại. Màu xám làm từ lá gai phơi khô, giã nhỏ và sắc lại. Màu đen là hỗn hợp giữa lá bàng quết với tro rơ ...

Tài liệu được xem nhiều: