Họa sĩ Từ Duy đã qua đời tại Đà Nẵng ngày mùng 6 tháng 5-2008. Để tưởng niệm ông, Đặng Tiến đã viết thêm lời giới thiệu và đưa thêm hình ảnh cho bài ông đã viết trong Diễn Đàn số 43, 07.1995.
Họa sĩ Từ Duy đã qua đời tại Đà Nẵng quê hương, lúc 18 giờ, ngày 6 tháng 5 năm 2008, sau một cơn bạo bệnh cấp tính, hưởng dương 57 tuổi.
Anh đã hai lần sang Pháp triển lãm.
Bài này tôi viết cho cuộc triển lãm lần đầu, đọc lại còn thấy đúng, nay phổ biến lại,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tranh Từ Duy tại Pháp
Tranh Từ Duy tại Pháp
Họa sĩ Từ Duy đã qua đời tại Đà Nẵng ngày mùng 6 tháng 5-2008.
Để tưởng niệm ông, Đặng Tiến đã viết thêm lời giới thiệu và đưa
thêm hình ảnh cho bài ông đã viết trong Diễn Đàn số 43, 07.1995.
Họa sĩ Từ Duy đã qua đời tại Đà Nẵng quê hương, lúc 18 giờ, ngày 6
tháng 5 năm 2008, sau một cơn bạo bệnh cấp tính, hưởng dương 57
tuổi.
Anh đã hai lần sang Pháp triển lãm.
Bài này tôi viết cho cuộc triển lãm lần đầu, đọc lại còn thấy đúng, nay
phổ biến lại, để tưởng nhớ một tài hoa mệnh bạc, một người bạn quý,
thân thiểt, mà tôi may mắn gặp lại nhiều lần tại quê nhà, dịp Tết năm
nay.
Đặng Tiến
Paris 10-5-2008, ngày đưa tang Từ Duy, tại Đà Nẵng
Trong tháng 4 năm 1995, Trung tâm Văn hoá Pháp-Việt (24 rue des
Ecoles, Paris ) đã trưng bày tranh Từ Duy. Sau đó, hoạ sĩ vẽ thêm một
số tranh và triển lãm tại Pontivy, một thị trấn nhỏ thuộc hạt Morbihan,
vùng Bretagne . Hai cuộc triển lãm tương đối thành công, trên hai diện
dư luận và tài chính. Lối thành công cò con và từ tốn mà đất Pháp có
thể dành cho một hoạ sĩ Việt Nam chưa có danh vị, không có hậu
thuẫn, trên thị trường tranh tràn bứ, giữa hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Tranh Từ Duy, và bản thân hoạ sĩ, có những nét đặc biệt. Trước tiên, có
lẽ lần đầu ở hải ngoại có cuộc bày tranh cá nhân của một hoạ sĩ đi từ
đồng ruộng Việt Nam, chứ không phải từ phố phường những kinh đô
Hà Nội, Huế, Sài Gòn như từ trước đến nay. Từ Duy, sinh năm 1951 tại
Quảng Nam, tự học vẽ giữa những vồng sắn nương khoai ; anh là người
thất học – không phải là vô học – trưởng thành giữa một hoàn cảnh
khốn khổ và đất nước khói lửa. Tuổi trẻ phiêu dạt điêu linh không thừa
kế được vốn văn hoá như trường hợp Nguyễn Bính ngày xưa. Đất
Quảng Nam sinh thành ra anh, giàu truyền thống văn học, nhưng nghèo
truyền thống hội hoạ. Về văn học, Quảng Nam có sân khấu : tuồng,
kịch Lưu Quang Thuận, tác phẩm Lưu Quang Vũ ; tiểu thuyết : Nguyên
Ngọc, Nguyễn Văn Bổng và Phan Tứ. Lý luận : từ Phan Khôi đến Lê
Đình Kỵ. Thơ thì nhiều. Riêng nghệ thuật tạo hình, dường như không
có bao nhiêu. Trước 1945, trường Mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội
không thấy tên người Quảng Nam . Thời ấy Phạm Hầu nhà thơ yểu
mệnh có vẽ tranh, nay không biết còn không. Thời chống Pháp, hoạ sĩ
Nguyễn Đỗ Cung nằm ngay tại Khu Năm, vẽ và dạy vẽ, mà không tạo
được môn sinh nổi tiếng như Tô Ngọc Vân tại Việt Bắc đã tạo được
một thế hệ hoạ sĩ kháng chiến. Những năm 1960, thời vàng son của hội
hoạ Sài Gòn, hoạ sĩ Cù Nguyễn (tên thật là Nguyễn Niệm) quê Quảng
Nam, đã sáng tác nhiều tranh sơn dầu đặc sắc, nhưng sau này không
thấy anh vẽ vời gì. Trong sự hụt hẫng đó, Từ Duy tự lực cơm mo tranh
cuốn sang Pháp (thời gian này các màn ảnh Paris đang chiếu phim... Un
Indien dans la Vil1e (Người da đỏ tại Paris), Hội Văn nghệ địa phương
không giúp gì, cơ quan tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng cấp chiếu khán hiệu
lực đúng một tháng, nghĩa là ba mươi ngày vừa đi vừa về, đóng khung,
căng tranh, triển lãm và thu dọn.
Tranh sơn dầu và tranh khắc gỗ Từ Duy có nhiều bức đẹp, vẻ đẹp hồn
nhiên của tranh tự học – và tự lọc. Màu sắc Từ Duy chủ yếu là tươi
thắm, óng chuốt và đối lập ; đường nét cách điệu, mềm mại, tài hoa.
Nhiều hoạ tố của tranh dân gian và dân tộc được phối trí theo hội hoạ
hiện đại, tạo được phong cách riêng, vừa lạ vừa thân. Phong cách đó
còn chưa vững nét, phòng tranh chưa nhất trí. Đường cọ Từ Duy giàu
cá tính, mà anh khẳng định quyết liệt trong một số hoạ phẩm (Cảnh
chợ, Tuổi, Trăng rầm, Chùa Hương, Quên trưa, Cổng chùa, và bức
Thiếu nữ, bán cho bà Mitterand, phu nhân Tổng Thống ). Nhưng trong
một số tranh khác, nét cọ còn lưỡng lự, lắp ghép (như Trưa hè). Từ
Duy đặc sắc trên những diện tích nhỏ, nhưng tan loãng trên những kích
thước lớn – có thể vì đời anh chưa được thấy tận mắt một tuyệt tác
hoành tráng : chuyến đi ra nước ngoài sẽ giúp Từ Duy tung ràn ra
khỏi tư thế làm ăn nhỏ .
Người hoạ sĩ xác định bản sắc mình bằng đôi mắt rồi mới đến bàn tay.
Anh phải nhìn sự vật bằng đôi mắt hoạ sĩ, để nhìn thấy, để nhận ra
những mô hình, mà người trần mắt thịt nhìn không thấy. Nếu anh chỉ
thấy cái thường tình như mọi người, rồi sao chép lại, thì anh chỉ làm ký
hoạ, và sẽ thành công nếu có chút hoa tay. Nhưng vẫn là tiểu phẩm.
Hội hoạ đòi hỏi một nhãn giới khác, cái nhìn thám hiểm, khám phá,
chắt lọc, tái tạo và sáng tạo. Hoạ sĩ vẽ lên cuộc đời – là Thượng đế trên
khung vải – trong khi thợ vẽ chỉ vẽ lại cuộc đời. Tiếng Việt ta có từ láy
vẽ vời thật hay. Hoạ sĩ là kẻ vẽ vời một cách trung thực. Từ Duy có con
mắt sáng tạo. Một bức khắc gỗ ghi lại cảnh con trâu lội qua sông :
chúng ta thấy sống lưng trâu, với chú bé cưỡi trâu bềnh bồng trên mặt
nước. Từ Duy bắt đầu là hoạ sĩ từ lúc đó, từ khi anh bắt được sống lưng
trâu trên mặt nước. Sau đó, trời lại cho anh thêm bàn tay hoạ sĩ để tái
tạo lại mảnh đời mà mắt anh đã khám phá. Từ Duy nhìn cảnh chợ cũng
vậy thôi : bức Cảnh chợ (sơ ...