Danh mục

Trẻ bị bạch hầu dễ tử vong

Số trang: 2      Loại file: doc      Dung lượng: 40.00 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bạch hầu là một bệnh nhiễm khuẩn nhiễmđộc cấp tính, gây dịch. Bệnhcó tiên lượng nặng, tỷ lệ biến chứng và tử vong rất cao nên điều quantrọng nhất để giảm tác hại của nó là phát hiện, xử trí sớm.Tác nhân gây b nh là tr c khu n Corynebacterium diphteriae. Chúng có ệ ự ẩ sứcsống tương đối cao và có khả năng sinh ngoại độc tố. Trong đờm, nước bọt,nước mũi, màng giả đã khô hoặc dính vào quần áo, vi khuẩn có thể sống được5-10 ngày; dưới ánh nắng mặt trời chúng sống được 2 giờ;...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trẻ bị bạch hầu dễ tử vongTrẻbịbạchhầudễtửvong Bạchhầulàmộtbệnhnhiễmkhuẩnnhiễmđộccấptính,gâydịch.Bệnh cótiênlượngnặng,tỷlệbiếnchứngvàtửvongrấtcaonênđiềuquan trọngnhấtđểgiảmtáchạicủanólàpháthiện,xửtrísớm. Tác nhân gây bệnh là trực khuẩn Corynebacterium diphteriae. Chúng có sức sống tương đối cao và có khả năng sinh ngoại độc tố. Trong đờm, nước bọt, nước mũi, màng giả đã khô hoặc dính vào quần áo, vi khuẩn có thể sống đượcCần tiêm vacxin phòng 5-10 ngày; dưới ánh nắng mặt trời chúng sống được 2 giờ; ở nhiệt độ thườngbạch hầu khi trẻ 2 tháng là 5 tháng. Với sức nóng 58 độ C, vi khuẩn bị chết sau 5 phút, ở 60 độ C sau 3 phút. Với các chất sát khuẩn thông thường, vi khuẩn bị diệt nhanh.tuổi.Tổn thương đầu tiên xuất hiện ở hầu họng, thanh quản, mũi là màng giả; cũng có thể thấy màng giả ởmắt, da, bộ phận sinh dục. Nguồn lây chủ yếu là người ốm và người lành mang khuẩn. Người ốm làm lâybệnh mạnh nhất trong thời kỳ đầu và có thể mang khuẩn từ vài tháng đến vài năm. Bệnh lan truyền chủyếu qua đường hô hấp do hít phải những giọt nước bọt nhỏ li ti từ trẻ ốm khi chúng khóc, ho, hắt hơi hoặcdo dùng chung khăn mặt, quần áo, sách vở, đồ chơi, thức ăn; cũng có thể do hít phải những hạt bụi cóchứa vi khuẩn bạch hầu lơ lửng trong không khí.Bệnh xảy ra quanh năm, có thể gây ra những vụ dịch nhỏ về mùa rét. Mọi lứa tuổi đều có thể bị bệnhbạch hầu nếu chưa được tiêm phòng, nhưng đa số là trẻ dưới 15 tuổi, nhất là trẻ 1-9 tuổi. Bệnh cảnh lâmsàng thường gặp là bạch hầu thể thường, bạch hầu thanh quản và bạch hầu ác tính. Chính độc tố bạchhầu là thủ phạm gây nhiễm độc.Với bạch hầu thể thường (hay thể họng - amiđan), ban đầu trẻ chỉ sốt nhẹ, biếng ăn, quấy khóc, khôngchịu chơi. Có thể trẻ có một vài biểu hiện làm ta nghĩ đến bệnh như: mệt mỏi, da xanh nhẹ, sổ mũi nướctrong ở một bên, họng hơi đỏ, amiđan sưng, cực trên của amiđan có thể đã có màng trắng mờ hoặcnhững chấm trắng rất nhỏ, nổi hạch dưới hàm.Nếu được phát hiện và điều trị ngay, bệnh sẽ khỏi nhanh và không có biến chứng. Nếu không, chỉ 2-3ngày sau, màng giả đã xuất hiện ở trên mặt amiđan rồi lan rất nhanh sang amiđan bên kia. Chỉ sau vàigiờ hoặc vài ngày, khắp họng đã bị phủ một màng trắng ngà hoặc trắng xám, dính chặt vào lớp niêm mạcbên dưới và có xu hướng lan rộng rất nhanh; nếu bóc dễ gây chảy máu. Tình trạng toàn thân mỗi lúc mộtnặng. Trẻ mệt mỏi, chỉ muốn nằm, da xanh tái, nuốt đau, sổ mũi nhiều, nước mũi có lẫn mủ, mạchnhanh, nhỏ, huyết áp hạ. Nếu VA cũng sưng, trẻ sẽ bị tắc mũi, khó thở.Việc điều trị lúc này có nhiều khó khăn. Tuy vậy, nếu được điều trị tốt, màng giả sẽ rụng hết sau 24-48giờ; các triệu chứng khác giảm dần rồi hết. Trẻ lại sức dần. Những trường hợp nặng màng giả bongchậm, có khi sau 5 ngày màng giả vẫn còn, tình trạng nhiễm độc nặng hơn, đến ngày thứ 10-15, trẻ cóthể bị liệt hoặc chuyển thành bạch hầu thanh quản hoặc bạch hầu ác tính. Trẻ có thể bị chết bất chợt vìsuy tim hoặc ngạt thở và nhiễm độc toàn thân nặng. Một số trường hợp bị liệt màn hầu, liệt chân, liệt mộtsố dây thần kinh sọ não, viễn thị. Nếu liệt màn hầu, trẻ sẽ bị sặc, nói khẽ và nói giọng mũi; không làmđược động tác thổi lửa hay huýt sáo; nghe hơi kém, ngủ ngáy vì lưỡi gà thõng xuống.Bạch hầu thanh quản thường tiếp theo sau bạch hầu thể thường do bệnh được phát hiện và điều trịkhông kịp thời. Bệnh diễn biến qua ba giai đoạn: khàn tiếng, khó thở và ngạt thở. Ban đầu trẻ chỉ sốt nhẹ,hơi khàn tiếng, húng hắng ho nhưng sau đó biến chuyển rất nhanh. Trẻ bị khàn giọng, mất tiếng, tiếng honghe ông ổng. Một vài ngày sau sẽ xuất hiện khó thở. Ban đầu trẻ khó thở về tối và đêm, sau tăng dần,khó thở từng cơn khi bị kích thích, thỉnh thoảng lại thở rít lên và co rút. Từ khó thở vào, khó thở chậm, cótiếng rít, lõm trên xương ức, dần dần trẻ khó thở cả hai thì, hít vào nặng nhọc và thở ra khó khăn. Cứ nhưthế, rồi trẻ xỉu dần đi, nằm yên không vật vã tưởng chừng bệnh đỡ. Nếu không mở khí quản kịp thời, trẻsẽ tử vong vì ngạt thở.Bạch hầu ác tính thường tiếp sau bạch hầu thể thường vài ngày do bệnh không được điều trị kịp thời.Nếu tiên phát, bệnh thường nặng hơn. Triệu chứng nổi bật của thể này vẫn là màng giả và tình trạngnhiễm độc toàn thân. Màng giả lan khắp họng, dày, sần sùi, màu vàng đen hoặc có máu. Miệng hôi, nóigiọng mũi. Trẻ bị chảy mũi, nước mũi có mủ loãng lẫn máu. Lỗ mũi bị loét và có thể có màng giả. Hạchdưới hàm sưng to làm cổ bạnh ra, khó nuốt, đôi khi bị sặc. Vào ngày thứ sáu của bệnh, màn hầu thườngbị liệt. Trẻ mệt lử, da xanh tái, nổi ban, đổ máu cam; có trẻ bị nôn ra máu, chảy máu dưới da, mạchnhanh, không đều, huyết áp hạ, gan to; môi và đầu ngón chân, tay tím. Thường trẻ tử vong sau 24-36 giờhoặc 1 tuần vì suy tim và suy thận. Một số trường hợp kéo dài được tới 30-50 ngày nhưng trẻ vẫn có nguycơ chết bất chợt.Trẻ bị bạch hầu là phải được theo dõi, chăm sóc và điều trị tại bệnh viện truyền nhiễm hoặckhoa truyền nhiễm để có điều kiện cách ly và hồi sức cấp cứu. Bệnh có thuốc kháng sinh đặc trị(penicillin và huyết thanh kháng độc tố bạch hầu). Nếu được phát hiện trước 48 giờ và chưa có biếnchứng, được điều trị và chăm sóc tốt, trẻ sẽ khỏi. Nên điều trị ngay khi có màng giả chứ không chờ kếtquả xét nghiệm. Ở gia đình, các vườn trẻ, lớp mẫu giáo, khi thấy trẻ có hiện tượng viêm mũi, viêm họng,da hơi xanh, vẻ mệt mỏi, cần cho khám bệnh ngay.Trẻ bị bệnh phải được nghỉ ngơi tuyệt đối, theo dõi trong 55 ngày. Nếu cho ra viện sớm trước ngày thứ30, cần dặn bệnh nhân hạn chế vận động, đi lại, tránh thay đổi tư thế đột ngột để phòng trụy tim mạch.Buồng dành cho người bệnh phải bảo đảm yên tĩnh, sạch sẽ, ấm và không có gió lùa. Chỉ ngừng cách lybệnh nhân sau khi đã cấy chất ngoáy họng hai lần mà không tìm thấy vi khuẩn gây bệnh; và chỉ ...

Tài liệu được xem nhiều: