Tri thức, kết nối tri thức và chu trình chuyển hóa tri thức
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 564.42 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết trình bày những đặc điểm, vai trò của tri thức và hệ thống tri thức trong đời sống xã hội hiện đại với sự phát triển của kinh tế tri thức, kinh tế số và xu hướng toàn cầu hóa. Phân loại tri thức và các dạng kết nối tri thức trong quá trình ứng dụng và phát triển tri thức. Đề xuất chu trình chuyển hóa tri thức, làm cơ sở cho các hoạt động tư duy - nhận thức và phát triển tri thức trong giáo dục và đào tạo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tri thức, kết nối tri thức và chu trình chuyển hóa tri thức Trần Khánh ĐứcTri thức, kết nối tri thức và chu trình chuyển hóa tri thứcTrần Khánh ĐứcTrường Đại học Bách khoa Hà Nội TÓM TẮT: Bài viết trình bày những đặc điểm, vai trò của tri thức và hệ thống triSố 01 Đại Cồ Việt, quận Hai Bà Trưng, thức trong đới sống xã hội hiện đại với sự phát triển của kinh tế tri thức, kinhHà Nội, Việt NamEmail: kduc1954@yahoo.com tế số và xu hướng toàn cầu hóa. Phân loại tri thức và các dạng kết nối tri thức trong quá trình ứng dụng và phát triển tri thức. Đề xuất chu trình chuyển hóa tri thức, làm cơ sở cho các hoạt động tư duy - nhận thức và phát triển tri thức trong giáo dục và đào tạo. TỪ KHÓA: Tri thức; hệ thống tri thức; phân loại tri thức; kết nối tri thức; chu trình chuyển hóa tri thức. Nhận bài 05/12/2019 Nhận kết quả phản biện và chỉnh sửa 12/01/2020 Duyệt đăng 25/01/2020. 1. Đặt vấn đề 2. Nội dung nghiên cứu Trong những thập niên cuối thế kỉ XX và những năm đầu 2.1. Tri thức và kinh tế tri thứcthế kỉ XXI của nhân loại, một nền kinh tế mới - nền kinh tế 2.1.1. Tri thức và các đặc điểm của tri thứctri thức hay còn gọi là nền kinh tế thông tin, kinh tế số, kinh Tri thức được hiểu là:”Những điều hiểu biết có hệ thốngtế dựa trên tri thức tạo nền tảng cho cuộc Cách mạng công về sự vật nói chung” (Từ điển tiếng Việt thông dụng - Nhànghiệp (CMCN) 4.0... đã ra đời. Đã có rất nhiều bàn luận Xuất bản GD, 1998). Có nhiều loại tri thức khác nhau nhưcủa các học giả trong nước và ngoài nước, nhiều công trình tri thức khoa học - những hiểu biết có hệ thống trong cácnghiên cứu xung quanh vấn đề này từ các khía cạnh chính lĩnh vực khoa học, tri thức kinh nghiệm với những hiểu biếttrị - xã hội, kinh tế - sản xuất, văn hóa, khoa học - công qua trải nghiệm trong thực tiễn về đời sống xã hội.... Trongnghệ. Nhìn chung, dù đứng ở góc độ nào, nhà kinh tế hay các công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức, người ta quannhà chính trị, nhà văn hóa, khoa học, chuyên gia công nghệ tâm đến các đặc điểm sau đây của tri thức:hay nhà doanh nhân... mọi người đều thấy nổi lên vai trò to - Trong tài liệu của Ngân hàng Thế giới, “Tri thức cholớn mang tính quyết định của tri thức, đặc biệt là tri thức phát triển”: Tri thức được coi như nguồn ánh sáng. Nóhệ thống được kết nối với tư cách là nhân tố tạo tiền đề, tạo không có trọng lượng và không sờ mó được. Nó có thể dễcơ sở và là bà đỡ cho việc ra đời của những hình thái kinh dàng du hành khắp thế giới, rọi sáng cuộc sống của nhântế - xã hội mới, trong đó có xã hội thông tin, kinh tế tri thức dân ở khắp mọi nơi. Tri thức tồn tại trên vật mang nó (sách,và các loại hình sản xuất - dịch vụ dựa trên nền tảng CMCN tạp chí, đĩa mềm, dòng tín hiệu ...).4.0. Cũng không phải ngẫu nhiên mà ngày nay, vai trò của - Không như các sản phẩm hàng hóa hữu hình mất giá trịtri thức, nguồn vốn tri thức - một sản phẩm của quá trình sau sử dụng hoặc chỉ sử dụng đơn nhất (Người này dùngnhận thức thế giới nói chung và con người nói riêng được thì người khác không dùng được), tri thức không bị mấtđề cao và các chỉ số phát triển tri thức (như các chỉ số sáng đi hoặc mất giá trị khi sử dụng, tri thức có thể chia sẻ chotạo, bài báo khoa học, bằng phát minh, sáng chế..) luôn luôn nhiều người, được sử dụng một lúc. Tri thức càng được sửlà những chỉ số so sánh quan trọng về trình độ phát triển dụng, kết nối nhiều thì giá trị càng tăng.của một quốc gia. Việc nhận dạng những khoảng cách giữa - Tri thức và thông tin luôn đi đến những nơi có nhu cầucác quốc gia không chỉ về thu nhập đầu người GDP, năng cao nhất và rào cản ít nhất. Sở hữu trí tuệ trở thành vấn đềlực khoa học - công nghệ mà còn về các chỉ số phát triển quan trọng nhất đối với các cá nhân, tổ chức, xã hội và cáctri thức và năng lực sáng tạo. Trong bối cảnh đó, vai trò quốc gia. Nguồn vốn tri thức là thành tố quan trọng nhất củacủa giáo dục (GD) và đào tạo đặc biệt là GD đại học (ĐH) nguồn vốn con người.ngày càng tăng cao. GD ĐH trở thành một môi trường cạnh - Tri thức là nhân tố tạo nên các nền văn minh, làm nêntranh chất xám (tri thức) gay gắt với một thị trường dịch vụ các cuộc CMCN từ 1.0 đến 4.0 (Vận dụng tri thức ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tri thức, kết nối tri thức và chu trình chuyển hóa tri thức Trần Khánh ĐứcTri thức, kết nối tri thức và chu trình chuyển hóa tri thứcTrần Khánh ĐứcTrường Đại học Bách khoa Hà Nội TÓM TẮT: Bài viết trình bày những đặc điểm, vai trò của tri thức và hệ thống triSố 01 Đại Cồ Việt, quận Hai Bà Trưng, thức trong đới sống xã hội hiện đại với sự phát triển của kinh tế tri thức, kinhHà Nội, Việt NamEmail: kduc1954@yahoo.com tế số và xu hướng toàn cầu hóa. Phân loại tri thức và các dạng kết nối tri thức trong quá trình ứng dụng và phát triển tri thức. Đề xuất chu trình chuyển hóa tri thức, làm cơ sở cho các hoạt động tư duy - nhận thức và phát triển tri thức trong giáo dục và đào tạo. TỪ KHÓA: Tri thức; hệ thống tri thức; phân loại tri thức; kết nối tri thức; chu trình chuyển hóa tri thức. Nhận bài 05/12/2019 Nhận kết quả phản biện và chỉnh sửa 12/01/2020 Duyệt đăng 25/01/2020. 1. Đặt vấn đề 2. Nội dung nghiên cứu Trong những thập niên cuối thế kỉ XX và những năm đầu 2.1. Tri thức và kinh tế tri thứcthế kỉ XXI của nhân loại, một nền kinh tế mới - nền kinh tế 2.1.1. Tri thức và các đặc điểm của tri thứctri thức hay còn gọi là nền kinh tế thông tin, kinh tế số, kinh Tri thức được hiểu là:”Những điều hiểu biết có hệ thốngtế dựa trên tri thức tạo nền tảng cho cuộc Cách mạng công về sự vật nói chung” (Từ điển tiếng Việt thông dụng - Nhànghiệp (CMCN) 4.0... đã ra đời. Đã có rất nhiều bàn luận Xuất bản GD, 1998). Có nhiều loại tri thức khác nhau nhưcủa các học giả trong nước và ngoài nước, nhiều công trình tri thức khoa học - những hiểu biết có hệ thống trong cácnghiên cứu xung quanh vấn đề này từ các khía cạnh chính lĩnh vực khoa học, tri thức kinh nghiệm với những hiểu biếttrị - xã hội, kinh tế - sản xuất, văn hóa, khoa học - công qua trải nghiệm trong thực tiễn về đời sống xã hội.... Trongnghệ. Nhìn chung, dù đứng ở góc độ nào, nhà kinh tế hay các công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức, người ta quannhà chính trị, nhà văn hóa, khoa học, chuyên gia công nghệ tâm đến các đặc điểm sau đây của tri thức:hay nhà doanh nhân... mọi người đều thấy nổi lên vai trò to - Trong tài liệu của Ngân hàng Thế giới, “Tri thức cholớn mang tính quyết định của tri thức, đặc biệt là tri thức phát triển”: Tri thức được coi như nguồn ánh sáng. Nóhệ thống được kết nối với tư cách là nhân tố tạo tiền đề, tạo không có trọng lượng và không sờ mó được. Nó có thể dễcơ sở và là bà đỡ cho việc ra đời của những hình thái kinh dàng du hành khắp thế giới, rọi sáng cuộc sống của nhântế - xã hội mới, trong đó có xã hội thông tin, kinh tế tri thức dân ở khắp mọi nơi. Tri thức tồn tại trên vật mang nó (sách,và các loại hình sản xuất - dịch vụ dựa trên nền tảng CMCN tạp chí, đĩa mềm, dòng tín hiệu ...).4.0. Cũng không phải ngẫu nhiên mà ngày nay, vai trò của - Không như các sản phẩm hàng hóa hữu hình mất giá trịtri thức, nguồn vốn tri thức - một sản phẩm của quá trình sau sử dụng hoặc chỉ sử dụng đơn nhất (Người này dùngnhận thức thế giới nói chung và con người nói riêng được thì người khác không dùng được), tri thức không bị mấtđề cao và các chỉ số phát triển tri thức (như các chỉ số sáng đi hoặc mất giá trị khi sử dụng, tri thức có thể chia sẻ chotạo, bài báo khoa học, bằng phát minh, sáng chế..) luôn luôn nhiều người, được sử dụng một lúc. Tri thức càng được sửlà những chỉ số so sánh quan trọng về trình độ phát triển dụng, kết nối nhiều thì giá trị càng tăng.của một quốc gia. Việc nhận dạng những khoảng cách giữa - Tri thức và thông tin luôn đi đến những nơi có nhu cầucác quốc gia không chỉ về thu nhập đầu người GDP, năng cao nhất và rào cản ít nhất. Sở hữu trí tuệ trở thành vấn đềlực khoa học - công nghệ mà còn về các chỉ số phát triển quan trọng nhất đối với các cá nhân, tổ chức, xã hội và cáctri thức và năng lực sáng tạo. Trong bối cảnh đó, vai trò quốc gia. Nguồn vốn tri thức là thành tố quan trọng nhất củacủa giáo dục (GD) và đào tạo đặc biệt là GD đại học (ĐH) nguồn vốn con người.ngày càng tăng cao. GD ĐH trở thành một môi trường cạnh - Tri thức là nhân tố tạo nên các nền văn minh, làm nêntranh chất xám (tri thức) gay gắt với một thị trường dịch vụ các cuộc CMCN từ 1.0 đến 4.0 (Vận dụng tri thức ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Khoa học giáo dục Quản lý giáo dục Hệ thống tri thức Phân loại tri thức Kết nối tri thức Chu trình chuyển hóa tri thứcGợi ý tài liệu liên quan:
-
11 trang 448 0 0
-
Thực trạng và biện pháp nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên trường Du lịch - Đại học Huế
11 trang 384 0 0 -
206 trang 304 2 0
-
174 trang 291 0 0
-
5 trang 287 0 0
-
56 trang 270 2 0
-
Sử dụng phương pháp WebQuest trong dạy học học phần Triết học Mác-Lênin
4 trang 242 0 0 -
Phát triển nguồn nhân lực ở Singapore và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay
5 trang 237 1 0 -
26 trang 217 0 0
-
6 trang 216 0 0