Triệu chứng Bệnh sốt vàng (Yellow fever)
Số trang: 18
Loại file: pdf
Dung lượng: 400.50 KB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thuật ngữ và từ “vàng-yellow” xuất phát từ quá trình diễn biến bệnh và xuất hiện dấu chứng vàng da, vàng mắt trên một số bệnh nhân khi mắc bệnh. Virus sốt vàng thuộc nhóm virut Arbo, họ Flaviviridae, giống Flavivirus. Vật chủ trung gian truyền bệnh là muỗi, muỗi Aedes aegypti chủ yếu gây bệnh sốt vàng ở các vùng nhiệt đới và thành thị châu Phi, muỗi Haemagogus gây bệnh sốt vàng ở các vùng nhiệt đới Nam Mỹ. Mặc dù đã có vaccin hiệu lực cao và an toàn nhưng hàng năm vẫn còn hàng trăm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Triệu chứng Bệnh sốt vàng (Yellow fever) Bệnh sốt vàng (Yellow fever)Thuật ngữ và từ “vàng-yellow” xuất phát từ quá trình diễn biến bệnh và xuất hiệndấu chứng vàng da, vàng mắt trên một số bệnh nhân khi mắc bệnh. Virus sốt vàngthuộc nhóm virut Arbo, họ Flaviviridae, giống Flavivirus. Vật chủ trung giantruyền bệnh là muỗi, muỗi Aedes aegypti chủ yếu gây bệnh sốt vàng ở các vùngnhiệt đới và thành thị châu Phi, muỗi Haemagogus gây bệnh sốt vàng ở các vùngnhiệt đới Nam Mỹ. Mặc dù đã có vaccin hiệu lực cao và an toàn nhưng hàng nămvẫn còn hàng trăm ca sốt vàng ở Nam Mỹ và hàng ngàn ca sốt vàng ở châu Phi vớitỷ lệ tử vong đáng kể. tỷ lệ tử vong trên số mắc bệnh là 20%.Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, không khác biệt về giới tính, song ở các vùng nhiệt đớibệnh gặp chủ yếu ở người lớn. Sốt vàng có thể ngăn ngừa được bằng tiêm chủngvaccine. Để bảo vệ những người đang sống trong các vùng có nguy cơ caovề lantruyền sốt vàng, Một số chiến lược song hành của WHO nhằm ngăn ngừa các vụdịch sốt vàng dựa trên chiến dịch tiêm chủng hàng loạt theo sau liệu trình tiêmchủng thường quy cho trẻ em. Sốt vàng có thể gây nên các vụ dịch và có thể ảnhhưởng khoảng 20% dân số. Khi các vụ dịch xảy ra trên các quần thể chưa tiêmvaccine, thì khi đó tỷ lệ chết có thể > 50% và đáng chú ý là hiện nay sốt vàng chưacó thuốc điều trị đặc hiệu.Virus gây sốt vàng da là một virus RNA thuộc họ Flaviviridae. Lây truyền quacon đường muỗi đốt (muỗi đặc hiệu cho bệnh sốt vàng, nhất là muỗi Aedes aegyptivà một số loài muỗi khác được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới tạiNam Mỹ và châu Phi, nhưng không thấy ở châu Á. Chỉ có những vật chủ thuộcđộng vật có vú mắc phải bệnh này. Nguồn gốc của bệnh được xem xuất phát từchâu Phi và sau đó sang nam Mỹ từ thế kỷ 16 qua giao thương quốc tế. Từ thế kỷ17, một số vụ dịch được ghi nhận tại châu Mỹ, châu Phi và châu Âu. Đến thế kỷ19, sốt vàng được xem là một trong những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhấttrên thế giới.Hiện nay bệnh biểu hiện với cơn sốt, đau mình mẩy và buồn nôn rồi tự biến mátsau đó vài ngày. Một số bệnh nhân có biểu hiện pha nhiễm độc với hình thái lâmsàng là tổn thương gan, vàng da và có thể dẫn đến tử vong. Vì bệnh có xu hướngtăng xuất huyết (bleeding diathesis), nên sốt vàng được xếp vào nhóm bệnh sốtxuất huyết (group of hemorrhagic fevers). Theo ước tính của WHO, bệnh sốt vànggây ra 200.000 người và gây ra khoảng 30.000 cái chết mỗi năm trên quần thể dânchưa tiêm vaccine, khoảng 90% dân số châu Phi nhiễm trùng loại này. Và đặc biệthơn, từ những năm 1980, số ca sốt vàng gia tăng, khiến cho giới chuyên môn đặttên gọi là bệnh tái đang nổi “ reemerging disease”.Hiện có 3 hình thức lan truyền trong chu kỳ sinh bệnh sốt vàng: lây truyền trongnúi rừng (sylvatic), lây truyền trung gian (intermediate) và lây truyền ở đô thị(urban). Cả 3 hình thái lan truyền này đều có mặt ở châu Phi, nhưng ở Nam Mỹchỉ có hình thái sốt vàng đô thị và sốt vàng rừng núi xảy ra mà thôi.-Sốt vàng rừng nhiệt đới hay rừng rậm (Sylvatic-jungle): sốt vàng xảy ra trongcác rừng mưa nhiệt đới nơi có khỉ bị nhiễm bởi các muỗi trong rừng (sylvaticmosquitoes), đưa virus vào trong cơ thể muỗi khác khi chúng hút máu; các muỗinày tiếp tục đốt người khi con người đi vào rừng. Diễn biến này xảy ra sẽ phátsinh các ca bệnh rải rác, phần lớn trong số chúng là những thanh niên trẻ vào rừnglàm việc như đốn gỗ, khai thác lâm sản…-Sốt vàng theo hình thái lây truyền trung gian (intermediate cycle) của bệnh sốtvàng xảy ra khi gặp phải trong môi trường rừng savan ẩm hoặc bán ẩm (humid orsemi-humid savannahs) của châu Phi và có thể sinh ra các vụ dịch quy mô nhỏ tạicác làng nông thôn. Một số muỗi dạng “semi-domestic mosquitoes” có thể gâynhiễm cả khi và người và tăng tiếp xúc giữa người và muỗi sẽ dẫn đến bệnh. Đâylà hình thức lan truyền bệnh hay gặp nhất để dẫn đến các vụ dịch sốt vàng trongthời gian vài thập niên qua ở châu Phi;-Sốt vàng lây truyền tại thành thị (Urban yellow fever) tạo các vụ dịch lớn bùngnổ khi các nhóm người đi du lịch từ các vùng nông thôn trở về có phơi nhiễm vớimuỗi trong các vùng mà mật độ dân cư cao. Muỗi nhà, đáng chú ý nhất là Aedesaegypti, mang virus và truyền từ người sang người. Các vụ dịch này có xu hướnglan rộng từ một vùng nào đó.Dịch tễ học và các vụ dịch sốt vàng trong thời gian 2000-2009Theo nguồn gốc tiến hóa của bệnh sốt vàng được xem châu Phi có thể là nơi gốc,virus có thể có nguồn gốc từ Đông hoặc Trung Phi và lan rộng ra khắp đến TâyPhi. Virus cũng như các vector A. aegypti đều có khả năng mang đến Nam Mỹ bởitàu sau năm 1492. Vụ dịch đầu tiên của bệnh xảy ra vào năm 1648 ở Yucatan, nơibệnh có thuật ngữ là xekik (nôn máu đen). Ít nhất có 25 vụ dịch chính xảy ra sauđó, như là vụ dịch ở Philadelphia năm 1793, có hàng ngàn người chết và chínhquyền Mỹ cũng như George Washington phải bỏ chạy khỏi thành phố. Các vụ dịchchính xảy ra ở châu Âu như vào năm 1821 tại Barcelona với hàng ngàn nạn nhân.1878, khoảng 200.000 người chết trong vụ dịch ở Mississippi River Valley và vụdịch cuối cùng tại Mỹ xảy ra vào năm 1905 tại New Orleans.Carlos Finlay, một bác sĩ Cuba và là nhà khoa học, đầu tiên nêu rõ về bệnh vàonăm 1881 cho biết sốt vàng lây truyền qua muỗi hơn là tiếp xúc trực tiếp. Các thửnghiệm tiếp theo tiến hành bởi một nhóm Walter Reed thành công trong chứngminh giả thuyết về muỗi ″Mosquito Hypothesis″. Do vậy, sốt vàng lần đầu tiên ghinhận muỗi là truyền bệnh. Rồi sau đó, thầy thuốc William Gorgas áp dụng quansát này để tiến hành loại trừ sốt vàng khỏi Havana.Năm 1927, virus sốt vàng được phân lập tại Tây Phi, từ đó hình thành nên 2 loạivaccine vào những năm 1930. Vaccine dòng virus D17 được phát triển bởi nhà vitrùng học Nam Mỹ Max Theiler tại viện nghiên cứu Rockefeller. Ông ta sử dụngtrứng gà để tinh chế vaccine và đạt giải No ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Triệu chứng Bệnh sốt vàng (Yellow fever) Bệnh sốt vàng (Yellow fever)Thuật ngữ và từ “vàng-yellow” xuất phát từ quá trình diễn biến bệnh và xuất hiệndấu chứng vàng da, vàng mắt trên một số bệnh nhân khi mắc bệnh. Virus sốt vàngthuộc nhóm virut Arbo, họ Flaviviridae, giống Flavivirus. Vật chủ trung giantruyền bệnh là muỗi, muỗi Aedes aegypti chủ yếu gây bệnh sốt vàng ở các vùngnhiệt đới và thành thị châu Phi, muỗi Haemagogus gây bệnh sốt vàng ở các vùngnhiệt đới Nam Mỹ. Mặc dù đã có vaccin hiệu lực cao và an toàn nhưng hàng nămvẫn còn hàng trăm ca sốt vàng ở Nam Mỹ và hàng ngàn ca sốt vàng ở châu Phi vớitỷ lệ tử vong đáng kể. tỷ lệ tử vong trên số mắc bệnh là 20%.Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, không khác biệt về giới tính, song ở các vùng nhiệt đớibệnh gặp chủ yếu ở người lớn. Sốt vàng có thể ngăn ngừa được bằng tiêm chủngvaccine. Để bảo vệ những người đang sống trong các vùng có nguy cơ caovề lantruyền sốt vàng, Một số chiến lược song hành của WHO nhằm ngăn ngừa các vụdịch sốt vàng dựa trên chiến dịch tiêm chủng hàng loạt theo sau liệu trình tiêmchủng thường quy cho trẻ em. Sốt vàng có thể gây nên các vụ dịch và có thể ảnhhưởng khoảng 20% dân số. Khi các vụ dịch xảy ra trên các quần thể chưa tiêmvaccine, thì khi đó tỷ lệ chết có thể > 50% và đáng chú ý là hiện nay sốt vàng chưacó thuốc điều trị đặc hiệu.Virus gây sốt vàng da là một virus RNA thuộc họ Flaviviridae. Lây truyền quacon đường muỗi đốt (muỗi đặc hiệu cho bệnh sốt vàng, nhất là muỗi Aedes aegyptivà một số loài muỗi khác được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới tạiNam Mỹ và châu Phi, nhưng không thấy ở châu Á. Chỉ có những vật chủ thuộcđộng vật có vú mắc phải bệnh này. Nguồn gốc của bệnh được xem xuất phát từchâu Phi và sau đó sang nam Mỹ từ thế kỷ 16 qua giao thương quốc tế. Từ thế kỷ17, một số vụ dịch được ghi nhận tại châu Mỹ, châu Phi và châu Âu. Đến thế kỷ19, sốt vàng được xem là một trong những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhấttrên thế giới.Hiện nay bệnh biểu hiện với cơn sốt, đau mình mẩy và buồn nôn rồi tự biến mátsau đó vài ngày. Một số bệnh nhân có biểu hiện pha nhiễm độc với hình thái lâmsàng là tổn thương gan, vàng da và có thể dẫn đến tử vong. Vì bệnh có xu hướngtăng xuất huyết (bleeding diathesis), nên sốt vàng được xếp vào nhóm bệnh sốtxuất huyết (group of hemorrhagic fevers). Theo ước tính của WHO, bệnh sốt vànggây ra 200.000 người và gây ra khoảng 30.000 cái chết mỗi năm trên quần thể dânchưa tiêm vaccine, khoảng 90% dân số châu Phi nhiễm trùng loại này. Và đặc biệthơn, từ những năm 1980, số ca sốt vàng gia tăng, khiến cho giới chuyên môn đặttên gọi là bệnh tái đang nổi “ reemerging disease”.Hiện có 3 hình thức lan truyền trong chu kỳ sinh bệnh sốt vàng: lây truyền trongnúi rừng (sylvatic), lây truyền trung gian (intermediate) và lây truyền ở đô thị(urban). Cả 3 hình thái lan truyền này đều có mặt ở châu Phi, nhưng ở Nam Mỹchỉ có hình thái sốt vàng đô thị và sốt vàng rừng núi xảy ra mà thôi.-Sốt vàng rừng nhiệt đới hay rừng rậm (Sylvatic-jungle): sốt vàng xảy ra trongcác rừng mưa nhiệt đới nơi có khỉ bị nhiễm bởi các muỗi trong rừng (sylvaticmosquitoes), đưa virus vào trong cơ thể muỗi khác khi chúng hút máu; các muỗinày tiếp tục đốt người khi con người đi vào rừng. Diễn biến này xảy ra sẽ phátsinh các ca bệnh rải rác, phần lớn trong số chúng là những thanh niên trẻ vào rừnglàm việc như đốn gỗ, khai thác lâm sản…-Sốt vàng theo hình thái lây truyền trung gian (intermediate cycle) của bệnh sốtvàng xảy ra khi gặp phải trong môi trường rừng savan ẩm hoặc bán ẩm (humid orsemi-humid savannahs) của châu Phi và có thể sinh ra các vụ dịch quy mô nhỏ tạicác làng nông thôn. Một số muỗi dạng “semi-domestic mosquitoes” có thể gâynhiễm cả khi và người và tăng tiếp xúc giữa người và muỗi sẽ dẫn đến bệnh. Đâylà hình thức lan truyền bệnh hay gặp nhất để dẫn đến các vụ dịch sốt vàng trongthời gian vài thập niên qua ở châu Phi;-Sốt vàng lây truyền tại thành thị (Urban yellow fever) tạo các vụ dịch lớn bùngnổ khi các nhóm người đi du lịch từ các vùng nông thôn trở về có phơi nhiễm vớimuỗi trong các vùng mà mật độ dân cư cao. Muỗi nhà, đáng chú ý nhất là Aedesaegypti, mang virus và truyền từ người sang người. Các vụ dịch này có xu hướnglan rộng từ một vùng nào đó.Dịch tễ học và các vụ dịch sốt vàng trong thời gian 2000-2009Theo nguồn gốc tiến hóa của bệnh sốt vàng được xem châu Phi có thể là nơi gốc,virus có thể có nguồn gốc từ Đông hoặc Trung Phi và lan rộng ra khắp đến TâyPhi. Virus cũng như các vector A. aegypti đều có khả năng mang đến Nam Mỹ bởitàu sau năm 1492. Vụ dịch đầu tiên của bệnh xảy ra vào năm 1648 ở Yucatan, nơibệnh có thuật ngữ là xekik (nôn máu đen). Ít nhất có 25 vụ dịch chính xảy ra sauđó, như là vụ dịch ở Philadelphia năm 1793, có hàng ngàn người chết và chínhquyền Mỹ cũng như George Washington phải bỏ chạy khỏi thành phố. Các vụ dịchchính xảy ra ở châu Âu như vào năm 1821 tại Barcelona với hàng ngàn nạn nhân.1878, khoảng 200.000 người chết trong vụ dịch ở Mississippi River Valley và vụdịch cuối cùng tại Mỹ xảy ra vào năm 1905 tại New Orleans.Carlos Finlay, một bác sĩ Cuba và là nhà khoa học, đầu tiên nêu rõ về bệnh vàonăm 1881 cho biết sốt vàng lây truyền qua muỗi hơn là tiếp xúc trực tiếp. Các thửnghiệm tiếp theo tiến hành bởi một nhóm Walter Reed thành công trong chứngminh giả thuyết về muỗi ″Mosquito Hypothesis″. Do vậy, sốt vàng lần đầu tiên ghinhận muỗi là truyền bệnh. Rồi sau đó, thầy thuốc William Gorgas áp dụng quansát này để tiến hành loại trừ sốt vàng khỏi Havana.Năm 1927, virus sốt vàng được phân lập tại Tây Phi, từ đó hình thành nên 2 loạivaccine vào những năm 1930. Vaccine dòng virus D17 được phát triển bởi nhà vitrùng học Nam Mỹ Max Theiler tại viện nghiên cứu Rockefeller. Ông ta sử dụngtrứng gà để tinh chế vaccine và đạt giải No ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 151 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 149 0 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 146 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 144 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 143 1 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 117 0 0 -
40 trang 94 0 0
-
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 88 0 0 -
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 85 0 0 -
40 trang 63 0 0