Về sự ra đời của trường phái Biểu hiện, có lẽ liên hệ gần nhất vẫn là ba bậc thầy: Cezanne, Gauguin và van Gogh. Những vấn đề mà ba vị này đặt ra một cách mạnh mẽ luôn tạo cảm hứng của những thế hệ họa sỹ đi sau. Ba vị này cũng là những người chả mấy khi bằng lòng với những gì thu nhận được từ các trường học nghệ thuật.
Với Cezanne, ông không bằng lòng với những thành công mà trường pháo Ấn tượng đã đạt được. Ông lo lắng khi thấy trường phái Ấn tượng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trường phái biểu hiện: Ra đời trong bất mãn với cái đẹp lý tưởng
Trường phái biểu hiện:
Ra đời trong bất mãn với
cái đẹp lý tưởng
Người xem Hà Nội biên soạn từ “Câu chuyện nghệ thuật”
(The Story of Art) của E.H Gombrich
Gauguin – “Spirit of the dead watching” (?), 1892
Về sự ra đời của trường phái Biểu hiện, có lẽ liên hệ gần nhất
vẫn là ba bậc thầy: Cezanne, Gauguin và van Gogh. Những
vấn đề mà ba vị này đặt ra một cách mạnh mẽ luôn tạo cảm
hứng của những thế hệ họa sỹ đi sau. Ba vị này cũng là
những người chả mấy khi bằng lòng với những gì thu nhận
được từ các trường học nghệ thuật.
Với Cezanne, ông không bằng lòng với những thành công mà
trường pháo Ấn tượng đã đạt được. Ông lo lắng khi thấy
trường phái Ấn tượng đang theo đuổi một cách thái quá
những khoảnh khắc phù du mà bỏ quên, hoặc đánh mất cái
trật tự, cái cân đối và những hình thể chắc chắn lâu bền của
thiên nhiên. Và giải pháp của Cezanne là khai sinh ra trường
phái Lập thể (Cubism) ở Pháp.
Paul Cézanne – “Still Life with Peppermint Bottle” (Tĩnh vật
với chai bạc hà)
Với Gauguin, một kẻ bất mãn, ông chán ghét cái thứ nghệ
thuật mà ông đang hưởng ở châu Âu, ông cho nó là già cỗi và
quá màu mè. Ông muốn đi tìm sự giản đơn và minh bạch nơi
những con người nguyên sơ. Và giải pháp của Gauguin đã
đưa tới các biến thể khác nhau của trường phái Ban sơ
(Primitivism).
Gauguin – “Christ jaune” (Chúa vàng), 1889. Sơn dầu trên
canvas. 92cm x 73cm
Van Gogh, một kẻ cũng không bằng lòng với những thỏa
hiệp về thị giác, hình như hiểu rằng nghệ thuật sẽ trở nên
thiếu nhiệt tình khi cố sức chạy đuổi theo chất lượng của ánh
sáng và màu sắc. Chỉ thông qua nhiệt tình nghệ sỹ mới diễn
đạt được cảm xúc mạnh mẽ của mình. Vangoh được đón
nhận nồng nhiệt ở Đức, và ông mở ra con đường dẫn tới
trường phái Biểu hiện (Expressionism). Trường phái này lấy
cảm hứng chủ yếu từ van Gogh, nhưng nó cũng nhận lấy
những cảm hứng từ hai bậc thầy kia: Cezanne và Gauguin.
Van Gogh – “Almond branches in bloom” (Những cành hoa
mận nở), 1890
Đến thời mình, các nghệ sỹ tiếp sau ba bậc thầy cô đơn và
nổi loạn trên đã cảm thấy sự ngột ngạt của trường phái Ấn
tượng, họ muốn qua mặt nó và thực sự đối diện với những
khó khăn. Một số kẻ trong số họ đã tìm thấy một phần cảm
hứng ở tranh khắc gỗ Nhật Bản. Đặc biệt là sau Thế chiến đã
bùng nổ một trào lưu ngưỡng mộ với các điêu khắc của
người da đen – những món đồ mà các nghệ sĩ có thể tìm thấy
ở các cửa hiệu bán đồ “thuộc địa” với giá rẻ mạt. Họ nhìn
thấy ở đó một cảm hứng mới cho nghệ thuật phương Tây
đang bị cho là đi vào ngõ cụt. Rõ ràng về cấu trúc, kĩ thuật
đơn giản và sức diễn tả mạnh mẽ của những bức tượng châu
Phi hình như không hề mang những băn khoăn về sự thật,
tính tự nhiên hay cái đẹp lý tưởng, những thứ mà nghệ thuật
châu Âu trong lúc trăn trở tìm kiếm nên đã biến chúng trở
nên khô cứng. Tất nhiên, ý nghĩa thực của những món điêu
khắc châu Phi không hề giản đơn như người ta vẫn nghĩ. Thế
nhưng, vào thời điểm đó, những gì mang lại từ những bức
tượng này cũng đã là một giải pháp cho sự tìm kiếm các trào
lưu mới, mà điển hình là trường phái Biểu hiện.
Mặt nạ tộc Luluwa, Cộng hòa Dân chủ Congo
Trong một bức thư mà van Gogh diễn tả khi ông vẽ bức tranh
chân dung người bạn, ông đã ví nó như một bức “biếm họa”
và tiên đoán rằng người ta sẽ khó mà chấp nhận. Quả thực,
tranh biếm họa bản thân nó đã có tính “biểu hiện”.
Van Gogh – “Doctor Gachet” (Bác sĩ Gachet). Sơn dầu trên
gỗ, 26cm x 20cm,1890
Những nhà vẽ tranh biếm họa đã chơi đùa và làm chúng méo
mó đi cho gần với cảm tưởng của tác giả về nhân vật của anh
ta. Thế nhưng, sự méo mó ấy tuy có thể rất dễ được chấp
nhận ở những loại hình nghệ thuật hoạt kê, lại sẽ khó khăn
hơn để được chấp nhận trong loại hình nghệ thuật nghiêm
chỉnh: thứ nghệ thuật mà dùng để nói về tình yêu, sự sợ hãi,
nỗi buồn rầu. Mặc dù, ngày hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng
chấp nhận một chân lý rằng cũng với phong cảnh đó, nó sẽ
được nhìn khác đi tùy khi ta vui vẻ hay buồn rầu. Nhưng thời
điểm đó, khi nghệ thuật (art) được viết bằng chữ A hoa thì
điều đó quả là một chướng ngại như Vangogh đã tiên đoán.
Khi nhắc tới trường phái Biểu hiện, có lẽ người đầu tiên phải
nhắc tới là Edvard Munch (1863-1944). Họa sỹ người Nauy
này đã tiếp nối được rõ nét tinh thần của Vangoh. Bức tranh
thường được mang ra làm ví dụ kinh điển về trường phái
Biểu hiện của họa sỹ này là “Tiếng thét”, bức tranh thạch bản
được họa sỹ thực hiện vào năm 1895.
Edvard Munch – “The Scream” (Tiếng thét), 1895
“Tiếng thét” cho thấy thế nào là một sự kích động bất ngờ
khi bị thay đổi toàn bộ giác quan. Mọi đường nét trên tranh
đều cho cảm giác dồn trọng tâm duy nhất vào khuôn mặt
đang thét, khiến người xem phải chia sẻ nỗi kinh hoàng, nỗi
đau và sự kích động của tiếng thét ấy. Đôi mắt mở trừng, hai
má hõm sâu như một người chết và được diễn đạt, bóp méo
như trong một bức biếm họa. Bức tranh còn làm cho ta băn
khoăn và ám ảnh bởi chẳng bao giờ biết được nguyên nhân
của tiếng thét ấy. Vào thời điểm ấy, trong khi khá nhiều
người cho rằng việc của các nghệ sỹ nghiêm túc khi thay đổi
bề ngoài của sự vật là nên lí tưởng hóa chúng chứ không nên
làm cho xấu xí, thì đối với Munch, một tiếng thét đau đớn có
thể không gọi là đẹp đẽ nhưng sẽ thiếu trung thực nếu chỉ
nhìn vào mặt tốt của cuộc sống.
Với sự mở đầu của Munch, các họa sỹ Biểu hiện đã có một
phương tiện tốt để cảm nhận sâu sắc nỗi nghèo túng, sự khổ
đau, bất công và những đam mê điên rồ của con người. Đối
với họ, việc khăng khăng bám víu vào sự hài hòa và cái đẹp
chỉ là sự thiếu ngay thật. Họ muốn đối diện một cách trần trụi
kiếp của nhân sinh, đứng về phía những kẻ bị tước đoạt
quyền lợi, bị đối xử bất công và xấu xí. Họ có thể cực đoan
cho rằng những bậc thầy cổ điển như Raphael hay Gorreggio
là đạo đức giả. Họ tránh những thứ gì xinh đẹp và “chọc” cho
giới trung lưu phải chi ra khỏi vỏ kén tự mãn.
Emil Nolde – “The last supper” (Bữa ...