Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 122.69 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khổng Tử, bậc thầy vĩ đại, hơn 2500 năm trước sáng lập ra học thuyết Nho giáo chứa đựng tư tưởng giáo dục sâu sắc. Ông nói: “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên” - tức “Trong ba người cùng đi, ắt có người là thầy của ta ở đó”. Suốt nghìn năm phong kiến, giáo dục Việt Nam trên đại thể được coi là nền giáo dục Nho giáo. Giá trị nhân bản tốt đẹp của nền giáo dục này thể hiện rất rõ ở “hằng số văn hóa” thầy - trò. Xưa đến nay, nhân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam Khổng Tử, bậc thầy vĩ đại, hơn 2500 năm trước sáng lập ra học thuyết Nhogiáo chứa đựng tư tưởng giáo dục sâu sắc. Ông nói: “Tam nhân đồng hành, tất hữungã sư yên” - tức “Trong ba người cùng đi, ắt có người là thầy của ta ở đó”. Suốt nghìn năm phong kiến, giáo dục Việt Nam trên đại thể được coi là nềngiáo dục Nho giáo. Giá trị nhân bản tốt đẹp của nền giáo dục này thể hiện rất rõ ở“hằng số văn hóa” thầy - trò. Xưa đến nay, nhân vật quan trọng nhất của trường học làngười thầy. Truyền thống ngàn đời trong thế ứng xử của người Việt được cô lại và đúckết bằng bốn chữ: “Tôn sư trọng đạo”. Câu nói: “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” là nhữnglời cửa miệng của người Việt nhắc nhở nhau mỗi khi đề cập tới vai trò của người thầy.Ở dân tộc Việt Nam, “tôn sư trọng đạo” thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân. Để tỏlòng tôn kính với thầy, người Việt có quan niệm: “Sống tết, chết giỗ”. Chính vì thế màdưới thời phong kiến, người thầy được xếp thứ hai sau vua, theo cách gọi: Quân - Sư -Phụ (Vua – thầy - cha). Thế ứng xử dân chủ linh hoạt của người Việt Nam rất đề cao vai trò của thầytrong sự nghiệp dạy và học. Vậy mới có câu: “Trò hơn thầy đức nước càng dày”, “họcthầy không tầy học bạn” - ý nói bạn cũng có thể là thầy. Ngày trước, thời phong kiến, không phải ai cũng có tiền đi học. Nhiều gia đìnhnghèo khó con em không thể đến trường. Tuy nhiên, cơ hội theo học vẫn có. Họ chỉcần theo những phép tắc nhất định - những phép tắc biểu hiện đậm nét của sự tôn sưtrọng đạo mà không quá câu nệ vào vật chất. Chẳng hạn, trước khi cho con đến theo học, cha mẹ sắm một mâm lễ bái lạy tổtiên, mong con học hành sáng dạ, đỗ đạt. Sau đó, gia đình có một “lễ mọn”, mang tínhchất “lòng thành” dâng lên thầy. Tỏ lòng thành kính “tôn sư trọng đạo”, nhiều gia đìnhcòn gửi gắm con mình theo học và ở luôn bên nhà thầy. Một năm chỉ về thăm nhà vàilần. Thỉnh thoảng, gia đình trò lại gửi biếu thầy ít gạo nếp, hoặc mớ rau, con cá nhưmột thông điệp bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới công lao to lớn của thầy. Thời gian ở nhà thầy, học trò không chỉ học chữ nghĩa mà quan trọng phải tudưỡng bản thân, rèn nhân cách sống. Có thể nói, đạo trò xưa không chỉ rất khiêmnhường, tôn kính người thầy của mình, mà còn có trách nhiệm, nghĩa vụ rất lớn lao.Khi ra đường, gặp thầy phải ngả mũ nón và vòng tay chào; lúc thầy già yếu, các đồngmôn phải lo sắm cỗ thọ đường (áo quan)... Phải thừa nhận nền giáo dục phong kiến có nhiều điểm còn hạn chế, nhưng dolấy tư tưởng đạo đức của Nho giáo làm nền tảng cơ bản nên đã tạo ra một lớp học tròtrọng nhân nghĩa và sống có đạo lý, rất “tôn sư trọng đạo”. “Tôn sư trọng đạo” còn thể hiện ở việc kính thầy. Kính thầy là một phong tụccó giá trị nhân văn sâu sắc. Kính thầy thường vào dịp đầu xuân - Tết nguyên đán. Họctrò xa gần náo nức rủ nhau tới chúc tết, thăm hỏi sức khỏe gia đình thầy. Dân gian cócâu: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy” cũng vì lẽ đó. Mối quan hệ thầy - trò tượng trưng cho nét đẹp văn hóa ứng xử của nhân dânViệt Nam. Người thầy như điểm sáng trí tuệ sưởi ấm tâm hồn học trò. Tìm trong lịchsử dân tộc ta có biết bao bậc thầy vĩ đại, cả đời tận trung vì dân vì nước. Cuộc sốngcủa họ thanh bần mà được người đời ca tụng, lưu danh muôn thuở. Vậy mới có một thầy Chu Văn An (1370), sẵn sàng từ bỏ áo mũ, quan tước,dâng sớ lên triều đình xin chém đầu 7 kẻ quyền thần. Một thầy Đồ Chiểu mù hai mắtnhưng cả đời kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh xâm lược của ngoạibang... Ý thức “tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta thật đa dạng, chứa đựng tính nhân bảntình người. Minh chứng cho điều này, chúng ta ngược thời gian trở về các làng nghềtruyền thống. Nhiều phường nghề, phố nghề ở Thăng Long được bắt đầu từ một số thợthủ công trong các làng nghề ở nông thôn. Họ di cư lên đô thị lập thương điếm, cửahiệu làm ăn, dần dà hình thành nên những phường nghề, phố nghề nơi kinh thành. Tuy sống và làm việc tại thành thị, nhưng họ vẫn có quan hệ mật thiết với quêhương. Ngày giỗ tổ, không ước hẹn nhưng tất cả cùng đồng tâm tụ họp về chốn cũ quêxưa để tưởng nhớ tới vị thầy đã truyền nghề cho họ. Trong sâu thẳm tâm thức mỗingười, đó là việc làm ghi lòng tạc dạ công ơn của lớp hậu sinh tới bậc tiền bối - ngườithầy sáng lập ra nghề và truyền lại cho hậu thế. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm ưutiên cho phát triển giáo dục, coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cho phép đadạng hóa các loại hình đào tạo. Chủ trương đưa đất nước phát triển tiến lên bằng nềnkinh tế tri thức. Nền giáo dục của Nhà nước ta đã chọn lấy ngày 20 tháng 11 hằng nămlàm ngày Nhà giáo Việt Nam. Đây có thể xe ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam Khổng Tử, bậc thầy vĩ đại, hơn 2500 năm trước sáng lập ra học thuyết Nhogiáo chứa đựng tư tưởng giáo dục sâu sắc. Ông nói: “Tam nhân đồng hành, tất hữungã sư yên” - tức “Trong ba người cùng đi, ắt có người là thầy của ta ở đó”. Suốt nghìn năm phong kiến, giáo dục Việt Nam trên đại thể được coi là nềngiáo dục Nho giáo. Giá trị nhân bản tốt đẹp của nền giáo dục này thể hiện rất rõ ở“hằng số văn hóa” thầy - trò. Xưa đến nay, nhân vật quan trọng nhất của trường học làngười thầy. Truyền thống ngàn đời trong thế ứng xử của người Việt được cô lại và đúckết bằng bốn chữ: “Tôn sư trọng đạo”. Câu nói: “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” là nhữnglời cửa miệng của người Việt nhắc nhở nhau mỗi khi đề cập tới vai trò của người thầy.Ở dân tộc Việt Nam, “tôn sư trọng đạo” thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân. Để tỏlòng tôn kính với thầy, người Việt có quan niệm: “Sống tết, chết giỗ”. Chính vì thế màdưới thời phong kiến, người thầy được xếp thứ hai sau vua, theo cách gọi: Quân - Sư -Phụ (Vua – thầy - cha). Thế ứng xử dân chủ linh hoạt của người Việt Nam rất đề cao vai trò của thầytrong sự nghiệp dạy và học. Vậy mới có câu: “Trò hơn thầy đức nước càng dày”, “họcthầy không tầy học bạn” - ý nói bạn cũng có thể là thầy. Ngày trước, thời phong kiến, không phải ai cũng có tiền đi học. Nhiều gia đìnhnghèo khó con em không thể đến trường. Tuy nhiên, cơ hội theo học vẫn có. Họ chỉcần theo những phép tắc nhất định - những phép tắc biểu hiện đậm nét của sự tôn sưtrọng đạo mà không quá câu nệ vào vật chất. Chẳng hạn, trước khi cho con đến theo học, cha mẹ sắm một mâm lễ bái lạy tổtiên, mong con học hành sáng dạ, đỗ đạt. Sau đó, gia đình có một “lễ mọn”, mang tínhchất “lòng thành” dâng lên thầy. Tỏ lòng thành kính “tôn sư trọng đạo”, nhiều gia đìnhcòn gửi gắm con mình theo học và ở luôn bên nhà thầy. Một năm chỉ về thăm nhà vàilần. Thỉnh thoảng, gia đình trò lại gửi biếu thầy ít gạo nếp, hoặc mớ rau, con cá nhưmột thông điệp bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới công lao to lớn của thầy. Thời gian ở nhà thầy, học trò không chỉ học chữ nghĩa mà quan trọng phải tudưỡng bản thân, rèn nhân cách sống. Có thể nói, đạo trò xưa không chỉ rất khiêmnhường, tôn kính người thầy của mình, mà còn có trách nhiệm, nghĩa vụ rất lớn lao.Khi ra đường, gặp thầy phải ngả mũ nón và vòng tay chào; lúc thầy già yếu, các đồngmôn phải lo sắm cỗ thọ đường (áo quan)... Phải thừa nhận nền giáo dục phong kiến có nhiều điểm còn hạn chế, nhưng dolấy tư tưởng đạo đức của Nho giáo làm nền tảng cơ bản nên đã tạo ra một lớp học tròtrọng nhân nghĩa và sống có đạo lý, rất “tôn sư trọng đạo”. “Tôn sư trọng đạo” còn thể hiện ở việc kính thầy. Kính thầy là một phong tụccó giá trị nhân văn sâu sắc. Kính thầy thường vào dịp đầu xuân - Tết nguyên đán. Họctrò xa gần náo nức rủ nhau tới chúc tết, thăm hỏi sức khỏe gia đình thầy. Dân gian cócâu: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy” cũng vì lẽ đó. Mối quan hệ thầy - trò tượng trưng cho nét đẹp văn hóa ứng xử của nhân dânViệt Nam. Người thầy như điểm sáng trí tuệ sưởi ấm tâm hồn học trò. Tìm trong lịchsử dân tộc ta có biết bao bậc thầy vĩ đại, cả đời tận trung vì dân vì nước. Cuộc sốngcủa họ thanh bần mà được người đời ca tụng, lưu danh muôn thuở. Vậy mới có một thầy Chu Văn An (1370), sẵn sàng từ bỏ áo mũ, quan tước,dâng sớ lên triều đình xin chém đầu 7 kẻ quyền thần. Một thầy Đồ Chiểu mù hai mắtnhưng cả đời kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh xâm lược của ngoạibang... Ý thức “tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta thật đa dạng, chứa đựng tính nhân bảntình người. Minh chứng cho điều này, chúng ta ngược thời gian trở về các làng nghềtruyền thống. Nhiều phường nghề, phố nghề ở Thăng Long được bắt đầu từ một số thợthủ công trong các làng nghề ở nông thôn. Họ di cư lên đô thị lập thương điếm, cửahiệu làm ăn, dần dà hình thành nên những phường nghề, phố nghề nơi kinh thành. Tuy sống và làm việc tại thành thị, nhưng họ vẫn có quan hệ mật thiết với quêhương. Ngày giỗ tổ, không ước hẹn nhưng tất cả cùng đồng tâm tụ họp về chốn cũ quêxưa để tưởng nhớ tới vị thầy đã truyền nghề cho họ. Trong sâu thẳm tâm thức mỗingười, đó là việc làm ghi lòng tạc dạ công ơn của lớp hậu sinh tới bậc tiền bối - ngườithầy sáng lập ra nghề và truyền lại cho hậu thế. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm ưutiên cho phát triển giáo dục, coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cho phép đadạng hóa các loại hình đào tạo. Chủ trương đưa đất nước phát triển tiến lên bằng nềnkinh tế tri thức. Nền giáo dục của Nhà nước ta đã chọn lấy ngày 20 tháng 11 hằng nămlàm ngày Nhà giáo Việt Nam. Đây có thể xe ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tôn sư trọng đạo ngữ văn phổ thông văn mẫu lớp 10 tài liệu lớp 10 ôn thi văn lớp 10 bài giảng văn lớp 10Tài liệu liên quan:
-
Hãy tưởng tượng và trò chuyện với người lính lái xe trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính
3 trang 69 0 0 -
Bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ qua một số tác phẩm văn học trung đại đã học
6 trang 58 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện Tam đại con gà
9 trang 43 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Nghị luận về lòng yêu thương con người
7 trang 36 0 0 -
Kiến thức cơ bản bài Mây và sóng - Ta-go
6 trang 36 0 0 -
Kết Thúc Có Hậu Truyện Tấm Cám...
4 trang 32 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
27 trang 32 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích Hình tượng Rama trong Ramayana
7 trang 30 0 0 -
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
10 trang 30 0 0 -
Tìm hiểu Một thời đại trong thi ca
7 trang 29 0 0