Danh mục

Truyền thông và y tế

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 237.29 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Truyền thông và y tếNguyễn Văn Tuấn Báo chí nước ta hàng ngày chuyển tải nhiều bản tin liên quan đến y tế và khoa học. Những bản tin này thường dựa vào hay dịch từ báo chí Tây phương, và hiện tượng “tam sao thất bổn” đôi khi cũng xảy ra gây nên những sự cố đáng tiếc. Ngoài ra, vì dựa vào nguồn thông tin hạng thứ, nên phóng viên không có điều kiện đề truy cập thông tin gốc, và từ đó xảy ra một số ngộ nhận và diễn giải không chính xác, gây hoang mang,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Truyền thông và y tế Truyền thông và y tế Nguyễn Văn Tuấn Báo chí nước ta hàng ngày chuyển tải nhiều bản tin liên quan đến y tế vàkhoa học. Những bản tin này thường dựa vào hay dịch từ báo chí Tây phương, vàhiện tượng “tam sao thất bổn” đôi khi cũng xảy ra gây nên những sự cố đáng tiếc.Ngoài ra, vì dựa vào nguồn thông tin hạng thứ, nên phóng viên không có điều kiệnđề truy cập thông tin gốc, và từ đó xảy ra một số ngộ nhận và diễn giải khôngchính xác, gây hoang mang, thậm chí ảnh hưởng đến một bộ phận kinh tế trong xãhội. Bài viết này sẽ điểm qua lịch sử của mối tương tác giữa truyền thông và khoahọc và trình bày những qui trình chuyển tải thông tin khoa học đến công chúng.Vài dòng lịch sử Mối liên hệ giữa truyền thông và y khoa có một lịch sử khá lâu đời, phongphú và thú vị. Điểm qua các sách liên quan đến bộ môn này, có thể nói rằng giớitruyền thông bắt đầu chú ý đến các vấn đề y tế liên quan đến tình trạng sức khỏecủa các chính trị gia ở Mĩ. Tháng 6 năm 1893, tổng thống Mĩ, Glover Cleveland,xuống một chiếc du thuyền ở hải cảng New York trong một chuyến đi đ ược ngườita biết đến như là một chuyến du ngoạn trên biển. Tuy nhiên, trên thuyền còn có 5bác sĩ giải phẫu và một nha sĩ, và nhiệm vụ của họ là giải phẫu qui hàm trái bị ungthư của tổng thống. Sau khi cuộc phẫu thuật hoàn tất, các quan chức Nhà trắngcho công chúng biết đó là một cuộc … nhổ răng. Năm 1919, sau khi tổng thống Woodrow Wilson bị tai biến mạch máu não,ông được các quan chức Nhà trắng khuyên phải để râu để che lấp phía trái của mặtbị teo lại vì cơn bệnh. Chẳng những thế, văn phòng ông làm việc mỗi khi kháchđến thăm được điều chỉnh ánh sáng sao cho mờ mờ để che dấu khuyết tật của ông.Tương tự, bệnh bại liệt (polio) của tổng thống Roosevelt và bệnh Addison củatổng thống Kennedy cũng được các quan chức Nhà trắng dấu kín, không tiết lộcho công chúng biết. Mãi đến năm 1955, khi tổng thống Dwight Eisenhower cho phép tiết lộ chitiết về việc ông vừa bị nhồi máu cơ tim và trải qua cuộc phẫu thuật lớn do bác sĩPaul Dudley thực hiện. Thậm chí bí thư báo chí của tổng thống còn tiết lộ với báochí về màu áo pijama ông mặc và số lần ông … đi tiêu trong ngày! Kể từ đó, cácvấn đề y khoa không còn là những thông tin bí mật, mà được chia sẻ một cáchthành thật trước công chúng. Cho đến thập niên 1980s, các bản tin liên quan đến y tế bắt đầu xuất hiệnthường xuyên trên mặt báo, hệ thống truyền thanh và truyền hình, nhưng đến bâygiờ sức khỏe của tổng thống không phải là vấn đề quan tâm chính mà là các bảntin về điều trị. Cũng chính qua những bản tin như thế này, và qua phản ảnh củacông chúng, người ta mới nhận ra được ảnh hưởng to lớn của vai trò truyền thôngđến y tế. Theo một cuộc thăm dò ý kiến ở Mĩ, 75% người được thăm dò cho biếthọ thường theo dõi các thông tin liên quan đến y khoa và y tế trên các phương tiệntruyền thông đại chúng. Trong số này, 58% người được hỏi cho biết họ sẵn sàngthay đổi lối sống hay hành động theo các bản tin đó. Tháng 10 năm 1984, tập san thần kinh học Neurosurgery công bố mộtnghiên cứu điều trị bệnh Alzheimer gây chấn động dư luận Mĩ. Phương pháp điềutrị bao gồm việc cấy một cái bơm có chức năng liên tục bơm bethanechol chloridevào não. Chỉ 4 bệnh nhân được điều trị, và kết quả được đánh giá một cách chủquan theo cảm nhận của bác sĩ. Ấy thế mà khi đến tay báo chí, phương pháp còntrong vòng thử nghiệm rất sơ khởi đó trở thành “một sự đột phá trong việc điều trịbệnh Alzheimer”, và “các bác sĩ hi vọng rằng bệnh Alzheimer sẽ được chinh phụcnay mai”! Khi bản tin được truyền đi, trung tâm thực hiện nghiên cứu nhận được2600 cú điện thoại từ bệnh nhân và thân nhân xin được điều trị. Có người thậm chíchở thân nhân đến tận nơi và kí ngay một ngân phiếu 10.000 USD. Nhưng khithuật điều trị đó được áp dụng cho vài bệnh nhân khác, kết quả hoàn toàn vô dụng,và bản tin trở nên câu chuyện hài hước cho giới y khoa. Những mâu thuẫn giữa giới truyền thông và y khoa cũng được ghi nhận quanhững kinh nghiệm như vừa trình bày trên. Y khoa, là một ngành nghề mang tínhkhoa học, có truyền thốn g dựa vào bằng chứng nghiên cứu khoa học thu thập từmột quần thể và được phân tích bằng các thuật toán thống kê. Trong khi đó,truyền thông có truyền thống nhấn mạnh đến những câu chuyện mang tính cá nhânvà phải sử dụng nhiều nguồn khác nhau, kể cả những nguồn với ý kiến trái ngượcnhau. Giới y khoa không xem ý kiến cá nhân từ các chuyên gia là một bằng chứngđáng tin cậy, nhưng truyền thông thì rất kính trọng những ý kiến của chuyên gia.Các tin nào được truyền thông quan tâm? Câu hỏi cơ bản nhất trong truyền thông y tế là làm sao phát hiện, xử lí vàchuyển tải một bản tin có liên quan đến công chúng hay phản ảnh được sự quantâm chính đáng của công chúng. Nói cách khác, thông tin nào xứng đáng đượcxuất hiện trên mặt báo? Một định nghĩa về thông tin xứng đáng được ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: