Từ con số không trở thành anh hùng: Những ý tưởng không tưởng làm chuyển biến thế giới 10
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 155.33 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tương lai kĩ thuật số có từ quá khứ lâu rồi Âm thanh kĩ thuật số được phát minh ra vào năm 1937 – hàng thập kỉ trước khi công nghệ sử dụng nó được phát triển.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Từ con số không trở thành anh hùng: Những ý tưởng không tưởng làm chuyển biến thế giới 10 Từ con số không trở thành anh hùng: Những ý tưởng không tưởng làm chuyển biến thế giới (10) Tương lai kĩ thuật số có từ quá khứ lâu rồi Âm thanh kĩ thuật số được phát minh ra vào năm 1937 – hàng thập kỉ trướckhi công nghệ sử dụng nó được phát triển. Tương lai kĩ thuật số có từ quá khứ lâu rồi (Ảnh: Steve Horrell/SPL) Mặc dù vào lúc ấy, ông đã không nhận ra nó, nhưng năm 1937, kĩ sư ngườiAnh Alec Reeves đã thiết lập nền tảng cho các mạng viễn thông kĩ thuật số hiện đại.Van điều khiển (ống chân không) khi ấy đang ở trong thời kì hoàng kim của nó, cácmáy vi tính kĩ thuật số vẫn còn là tương lai nhiều năm phía trước, và transistor thìmột thập niên nữa mới ra đời. Năm 1927, những cuộc gọi điện thoại thương mại xuyên đại dương đã có thểthực hiện bằng các máy điện thoại vô tuyến. Vào đầu những năm 1930, Reeves đãgiúp phát triển các radio cao tần có thể mang tải vài cuộc gọi cùng lúc, nhưngnhững cuộc gọi này chồng chất với nhau, tạo ra một tín hiệu nhiễu khó hiểu. Khi ấy, Reeves nhận ra rằng việc biến đổi những biểu diễn dạng tương tựnày của giọng nói thành một chuỗi xung kiểu như điện báo có thể tránh được sựchồng chất rắc rối đó. Ông đã thiết kế các mạch điện để đo cường độ của giọng nóicủa từng người 8000 lần trong một giây và gán cho cường độ tín hiệu đó là mộttrong 32 mức. Mỗi mức khi đó được biểu diễn bằng một chuỗi năm chữ số nhịphân. Miễn là máy thu có thể phân biệt chuỗi nhị phân 1 với chuỗi nhị phân 0, thìnó có thể biến đổi chuỗi xung trở lại thành giọng nói. Đó là trên lí thuyết. “Khi ấy, chẳng có công cụ nào có sẵn có thể biến nó thànhsản phẩm kinh tế”, ông đã viết như vậy hơn 25 năm sau này. Công ti chủ quản củaông, ITT, đã đăng kí bằng sáng chế điều biến mã xung, nhưng chưa bao giờ kiếmđược một xu nào trước khi bằng phát minh đó hết hiệu lực vào thập niên 1950. Reeves là người có tầm nhìn xa trông rộng, ông thường nói: “Nh ững điều tôinói sắp xảy ra thì thường là đúng, nhưng tôi chưa bao giờ nói đúng chính xác là khinào cả”. Có lẽ ông nghĩ ông thật sự nhìn thấy tương lai. Ông đã nghiên cứu tâm linhhọc và tin rằng ông đang cảm nhận các tín hiệu ở dạng mã Morse gửi đến từ nhữngthế giới khác. Các nhà điều hành ITT cuối cùng đã bố trí ông vào chức danh nghiên cứumạo hiểm tại Phòng thí nghiệm Chuẩn Viễn thông ở Harlow, Essex. Trong vai tròđó, ông đã lập một nhóm để nghiên cứu công nghệ truyền thông bằng laser, vànhiệt tình ủng hộ cho công trình nghiên cứu do Charles Kao lãnh đạo, cái đã mangđến mạng lưới cáp quang mang tải các tín hiệu ánh sáng điều biến mã xung đi khắpthế giới ngày nay. Từ con số không trở thành anh hùng: Những ý tưởng không tưởng làm chuyển biến thế giới (9) Protein sát thủ Trước khi giành giải thưởng Nobel, Stanley Prusiner bị người ta nhạo báng vìđã đề xuất ra cái ông gọi là prion gây ra chứng bệnh não bọt biển. Khi bằng chứng cho thấy bệnh Creutzfeldt-Jakob rối loạn não kiểu “bọt biển”(CJD), bệnh kuru và scrapie không thể truyền bởi virus hay vi khuẩn, thì nhà thầnkinh học Stanley Prusiner đã nêu ra một loại tác nhân lây nhiễm mới lạ: mộtprotein xấu. Đó là một ý tưởng kì quặc đến mức Prusiner bị người ta nhạo báng. Ảnh: Eye of Science/SPL Prusiner lần đầu nghiên cứu những chứng bệnh này vào năm 1972, sau khimột trong các bệnh nhân của ông tại trường Đại học California, San Francisco, quađời vì CJD. Một thập niên sau, trên tạp chí Science (số 216, trang 136), ông đề xuấtrằng những chứng bệnh này gây ra bởi một “hạt lây nhiễm chứa protein”, hayprion. Ý tưởng đó dựa trên kết quả của các nhà nghiên cứu người Anh. Năm 1967,Tikvah Alper thuộc Đơn vị Xạ trị của Trung tâm Nghiên cứu Y khoa đã chứng minhrằng bất kể cái gì gây ra CJD đều vô hại trước liều lượng bức xạ tử ngoại phá hỏngbất kì chất liệu di truyền nào khác (Nature, số 214, trang 764). Không lâu sau đó,nhà toán học John Stanley Griffith thuộc trường Bedford College ở London đã nghĩra một giả thuyết duy-protein cho sự lây bệnh scrapie. Bài báo Nature năm 1967của ông (số 215, trang 1043) phát biểu rằng không có lí do gì để lo sợ rằng ý tưởngđó “sẽ làm cho toàn bộ cấu trúc lí thuyết của sinh học phân tử đi đến sụp đổ”. Công trình này ít gây chú ý khi nó được công bố. Tuy nhi ên, vào lúc Prusinernhập cuộc, sự thờ ơ lãnh đạm đã chuyển sang mức chỉ trích. Tháng 12 năm 1986,một trang hồ sơ mỉa mai của Prusine xuất hiện trên tạp chí Discover, mang tiêu đề“Tên gọi của trò chơi là tiếng tăm: nhưng nó có phải là khoa học không?” Nhưngchỉ 11 năm sau đó, ông đã được trao giải thưởng Nobel. Vẫn có những câu hỏi chưacó lời đáp về mô hình prion, nhưng chẳng ai nghi ngờ rằng công trình nghiên cứucủa Prusider sẽ mang lại kiến thức sâu sắc hơn về nguyên nhân gây ra chứng thầnk ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Từ con số không trở thành anh hùng: Những ý tưởng không tưởng làm chuyển biến thế giới 10 Từ con số không trở thành anh hùng: Những ý tưởng không tưởng làm chuyển biến thế giới (10) Tương lai kĩ thuật số có từ quá khứ lâu rồi Âm thanh kĩ thuật số được phát minh ra vào năm 1937 – hàng thập kỉ trướckhi công nghệ sử dụng nó được phát triển. Tương lai kĩ thuật số có từ quá khứ lâu rồi (Ảnh: Steve Horrell/SPL) Mặc dù vào lúc ấy, ông đã không nhận ra nó, nhưng năm 1937, kĩ sư ngườiAnh Alec Reeves đã thiết lập nền tảng cho các mạng viễn thông kĩ thuật số hiện đại.Van điều khiển (ống chân không) khi ấy đang ở trong thời kì hoàng kim của nó, cácmáy vi tính kĩ thuật số vẫn còn là tương lai nhiều năm phía trước, và transistor thìmột thập niên nữa mới ra đời. Năm 1927, những cuộc gọi điện thoại thương mại xuyên đại dương đã có thểthực hiện bằng các máy điện thoại vô tuyến. Vào đầu những năm 1930, Reeves đãgiúp phát triển các radio cao tần có thể mang tải vài cuộc gọi cùng lúc, nhưngnhững cuộc gọi này chồng chất với nhau, tạo ra một tín hiệu nhiễu khó hiểu. Khi ấy, Reeves nhận ra rằng việc biến đổi những biểu diễn dạng tương tựnày của giọng nói thành một chuỗi xung kiểu như điện báo có thể tránh được sựchồng chất rắc rối đó. Ông đã thiết kế các mạch điện để đo cường độ của giọng nóicủa từng người 8000 lần trong một giây và gán cho cường độ tín hiệu đó là mộttrong 32 mức. Mỗi mức khi đó được biểu diễn bằng một chuỗi năm chữ số nhịphân. Miễn là máy thu có thể phân biệt chuỗi nhị phân 1 với chuỗi nhị phân 0, thìnó có thể biến đổi chuỗi xung trở lại thành giọng nói. Đó là trên lí thuyết. “Khi ấy, chẳng có công cụ nào có sẵn có thể biến nó thànhsản phẩm kinh tế”, ông đã viết như vậy hơn 25 năm sau này. Công ti chủ quản củaông, ITT, đã đăng kí bằng sáng chế điều biến mã xung, nhưng chưa bao giờ kiếmđược một xu nào trước khi bằng phát minh đó hết hiệu lực vào thập niên 1950. Reeves là người có tầm nhìn xa trông rộng, ông thường nói: “Nh ững điều tôinói sắp xảy ra thì thường là đúng, nhưng tôi chưa bao giờ nói đúng chính xác là khinào cả”. Có lẽ ông nghĩ ông thật sự nhìn thấy tương lai. Ông đã nghiên cứu tâm linhhọc và tin rằng ông đang cảm nhận các tín hiệu ở dạng mã Morse gửi đến từ nhữngthế giới khác. Các nhà điều hành ITT cuối cùng đã bố trí ông vào chức danh nghiên cứumạo hiểm tại Phòng thí nghiệm Chuẩn Viễn thông ở Harlow, Essex. Trong vai tròđó, ông đã lập một nhóm để nghiên cứu công nghệ truyền thông bằng laser, vànhiệt tình ủng hộ cho công trình nghiên cứu do Charles Kao lãnh đạo, cái đã mangđến mạng lưới cáp quang mang tải các tín hiệu ánh sáng điều biến mã xung đi khắpthế giới ngày nay. Từ con số không trở thành anh hùng: Những ý tưởng không tưởng làm chuyển biến thế giới (9) Protein sát thủ Trước khi giành giải thưởng Nobel, Stanley Prusiner bị người ta nhạo báng vìđã đề xuất ra cái ông gọi là prion gây ra chứng bệnh não bọt biển. Khi bằng chứng cho thấy bệnh Creutzfeldt-Jakob rối loạn não kiểu “bọt biển”(CJD), bệnh kuru và scrapie không thể truyền bởi virus hay vi khuẩn, thì nhà thầnkinh học Stanley Prusiner đã nêu ra một loại tác nhân lây nhiễm mới lạ: mộtprotein xấu. Đó là một ý tưởng kì quặc đến mức Prusiner bị người ta nhạo báng. Ảnh: Eye of Science/SPL Prusiner lần đầu nghiên cứu những chứng bệnh này vào năm 1972, sau khimột trong các bệnh nhân của ông tại trường Đại học California, San Francisco, quađời vì CJD. Một thập niên sau, trên tạp chí Science (số 216, trang 136), ông đề xuấtrằng những chứng bệnh này gây ra bởi một “hạt lây nhiễm chứa protein”, hayprion. Ý tưởng đó dựa trên kết quả của các nhà nghiên cứu người Anh. Năm 1967,Tikvah Alper thuộc Đơn vị Xạ trị của Trung tâm Nghiên cứu Y khoa đã chứng minhrằng bất kể cái gì gây ra CJD đều vô hại trước liều lượng bức xạ tử ngoại phá hỏngbất kì chất liệu di truyền nào khác (Nature, số 214, trang 764). Không lâu sau đó,nhà toán học John Stanley Griffith thuộc trường Bedford College ở London đã nghĩra một giả thuyết duy-protein cho sự lây bệnh scrapie. Bài báo Nature năm 1967của ông (số 215, trang 1043) phát biểu rằng không có lí do gì để lo sợ rằng ý tưởngđó “sẽ làm cho toàn bộ cấu trúc lí thuyết của sinh học phân tử đi đến sụp đổ”. Công trình này ít gây chú ý khi nó được công bố. Tuy nhi ên, vào lúc Prusinernhập cuộc, sự thờ ơ lãnh đạm đã chuyển sang mức chỉ trích. Tháng 12 năm 1986,một trang hồ sơ mỉa mai của Prusine xuất hiện trên tạp chí Discover, mang tiêu đề“Tên gọi của trò chơi là tiếng tăm: nhưng nó có phải là khoa học không?” Nhưngchỉ 11 năm sau đó, ông đã được trao giải thưởng Nobel. Vẫn có những câu hỏi chưacó lời đáp về mô hình prion, nhưng chẳng ai nghi ngờ rằng công trình nghiên cứucủa Prusider sẽ mang lại kiến thức sâu sắc hơn về nguyên nhân gây ra chứng thầnk ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu vật lý vật lý phổ thông giáo trình vật lý bài giảng vật lý đề cương vật lýGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Vật lý đại cương A2: Phần 2 - ThS. Trương Thành
78 trang 121 0 0 -
Giáo trình hình thành ứng dụng điện thế âm vào Jfet với tín hiệu xoay chiều p2
10 trang 55 0 0 -
Giáo trình giải thích việc nôn mửa do phản xạ hoặc do trung khu thần kinh bị kích thích p10
5 trang 54 0 0 -
Giáo trình hình thành đặc tính kỹ thuật của bộ cánh khuấy Mycom trong hệ số truyền nhiệt p2
5 trang 47 0 0 -
Giáo trình Vật lý phân tử và nhiệt học: Phần 1
54 trang 47 0 0 -
Bài giảng Vật lý lớp 10: Chương 4 - Các định luật bảo toàn
6 trang 43 0 0 -
Giáo trình hình thành nguyên lý ứng dụng hệ số góc phân bố năng lượng phóng xạ p4
10 trang 42 0 0 -
Bài giảng Vật lý 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản
88 trang 40 0 0 -
Bài giảng Vật lý lớp 10 bài 7: Gia tốc - chuyển động thẳng biến đổi đều
9 trang 38 0 0 -
13. TƯƠNG TÁC GIỮA HAI DÒNG ĐIỆN THẲNG SONG SONG. ĐỊNH NGHĨA ĐƠN VỊ AM-PE
4 trang 36 0 0