Trong bài này, chúng tôi muốn góp phần vào việc tìm hiểu, phát hiện những quy luật trong quá trình kế thừa và phát triển nền âm nhạc Việt Nam hiện đại qua việc nghiên cứu về Tư duy đơn âm, đa âm và bản chất ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam hiện đại1 Tư duy đơn âm và đa âm. Đơn âm trong đặc thù dân ca người Việt
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TƯ DUY ĐƠN ÂM, ĐA ÂM VÀ BẢN CHẤT NGÔN NGỮ ÂM NHẠC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
TƯ DUY ĐƠN ÂM, ĐA ÂM VÀ BẢN CHẤT NGÔN NGỮ
ÂM NHẠC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Trong bài này, chúng tôi muốn góp phần vào việc tìm hiểu, phát hiện những quy luật trong quá
trình kế thừa và phát triển nền âm nhạc Việt Nam hiện đại qua việc nghiên cứu về Tư duy đơn
âm, đa âm và bản chất ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam hiện đại1 Tư duy đơn âm và đa âm. Đơn
âm trong đặc thù dân ca người Việt.Đơn âm và đa âm là những phương thức biểu hiện của âm
nhạc, sự khác nhau giữa chúng thường được phân biệt : Đơn âm chỉ có một bè và đa âm là
nhiều bè, nhưng đấy mới chỉ là hiện tượng bên ngoài, nếu chỉ căn cứ vào đó thì rất dễ bị lầm
lẫn. Một khúc tự sự trong chèo với cách đệm lòng bản của cả dàn nhạc vẫn thuộc về hệ thống
đơn âm, trong khi một nét giai điệu đơn độc thuộc một khúc aria nào đó trong ca kịch châu Âu
vẫn đặt vào hệ thống đa âm. Vấn đề là phải nhìn tổng thể bao gồm toàn bộ các yếu tố với mối
quan hệ hữu cơ của chúng.
Một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất của âm nhạc là cao độ mà đường nét sống động
của nó được bộc lộ trong giai điệu. Tuy nhiên, với phương thức đa âm, giai điệu chỉ là một trong
những hợp phần làm nên tác phẩm, trong lúc ở phương thức đơn âm thì giai điệu lại là tất cả.
Bên cạnh những yếu tố, mà ta có thể cảm nhận dễ dàng khi nhìn vào bài bản, như cao độ,
cường độ, tiết tấu, nhịp điệu.... còn một yếu tố ẩn dấu bên trong, phụ thuộc vào tâm lý con
người, tạo nên lực đẩy ngầm phân chia câu đoạn các tác phẩm từ mở đầu tới kết thúc, yếu tố
cực kỳ quan trọng đó chính là công năng.Công năng sinh ra từ hai trạng thái ở đỉnh điểm của hai
cực : động và tĩnh, không ổn định và ổn định. ở hệ thống đa âm, công năng được biểu hiện qua
những hợp âm với mối liên hệ chiều ngang và sắp xếp các cao độ theo chiều dọc trong nó. Còn
ở hệ thống đơn âm, toàn bộ sự diễn biến công năng đều nằm trong một tiết diện mảnh mai duy
nhất: giai điệu. Có thể nói đây là sự khác biệt căn bản của hai phương thức biểu hiện. Như vậy,
rõ ràng ở hai hệ thống, hai phương thức đã được đặt trong hai sự lựa chọn khác nhau. Những sự
lựa chọn này nằm trong nếp cảm nghĩ của một cộng đồng, của một dân tộc cụ thể trong một
quá trình lịch sử nhất định với biết bao thế hệ đã hun đúc để tạo lập nên và hoàn thiện hơn.
Chính vì vậy, về thực chất, những hình thức biểu hiện này đã được sản sinh ra từ những tư duy
khác nhau : Tư duy đơn âm và tư duy đa âm.Dân ca Việt Nam nói chung, dân ca người Việt nói
riêng; đều nằm trong hệ thống đơn âm. Tuy nhiên, ở mỗi nền dân ca của mỗi tộc người trên đất
nước ta đều có một lối nói, một ngôn ngữ đơn âm riêng với màu sắc riêng. Có nhiều yếu tố tạo
nên sự khác biệt này, trong đó nổi bật là yếu tố ngữ điệu, đặc biệt của người Việt.Tiếng nói đa
thanh được tạo ra trong một âm vực nhất định, trong đó từ không dấu là điểm tựa âm vực. Giai
điệu dân ca người Việt, trong quá trình phát triển, thường di chuyển từ âm khu cao tới âm khu
thấp kéo theo sự di chuyển của điểm tựa âm vực, đem lại những màu sắc hết sức tinh tế mà chỉ
những người am hiểu tiếng Việt mới có thể cảm nhận được.
Yếu tố đa thanh còn đem lại vần điệu cho thơ với hai sắc thái tương phản : bằng và trắc. Vần
bằng, vần trắc với số lượng và vị trí khác nhau không chỉ tạo nên những thể thơ mà còn phân
định hai loại hình kịch hát truyền thống : chèo với đặc điểm tự sự được biểu hiện qua thể thơ lục
bát một thể thơ chỉ gieo vần bằng và luôn luôn kết câu, kết đoạn bằng vần bằng. Còn tuồng với
đặc điểm bi hùng lại chỉ chủ yếu thể hiện trong thơ có cấu trúc năm chữ, sáu chữ, đặc biệt bảy
chữ, với vai trò nổi bật của vần trắc, đã có không ít câu đoạn được kết bằng vần trắc.Khoảng
cách giữa các vần được gieo luôn luôn đem lại một cảm giác chờ đợi, và vì vậy, khi vần được
gieo đã tạo nên một khoái cảm thẩm mỹ, đồng thời bố cục thơ lục bát - một thể thơ phổ biến
trong dân ca với số từ không bằng nhau trong câu 6 và câu 8, với cách gieo vắn so le đã đem lại
một tiền đề quý báu cho sự phát triển của giai điệu.
Sự phong phú của tiếng nói đa thanh cũng giúp cho âm điệu lời thơ luôn luôn được đổi mới. Rất
hiếm gặp trong một bài thơ, thậm chí trong một truyện thơ, sự lặp lại thanh điệu giữa những câu
thơ. Chính vì vậy, sự phát triển của giai điệu dân ca chủ yếu dựa trên sự đổi mới liên tục, ít khi
lặp lại tính nguyên dạng của chủ đề (tức chủ đề âm nhạc). Cũng vì vậy mỗi giai điệu phải có
thủ pháp riêng để đảm bảo tính thống nhất, cũng như dựa vào sự vận hành công năng để tồn
tại. Có thể nói tiếng Việt với ngữ điệu độc đáo đã góp phần quan trọng tạo nên những đặc thù
cho ngôn ngữ đơn âm trong dân ca người Việt.2. Sự giao thoa giữa tư duy đơn âm và đa âm,
một tất yếu của lịch sử.Vị trí địa lý của nước ta ở vào trung tâm đông nam châu á, thuận lợi cho
sự giao lưu quốc tế, đồng thời cũng ở vào thế luôn luôn bị dòm ngó, đe doạ xâm lược từ nhiều
phía. Để có thể tồn tại, dân tộc ta, trải qua những thăng trầm trong cuộc đấu tranh dài hàng
thiên niên kỷ chống lại mọi địch hoạ, đã ...