Danh mục

TƯ DUY PHƯƠNG ĐÔNG NHÌN DƯỚI ÁNH SÁNG HỌC THUYẾT EINSTEIN Tác giả: Nguyễn Huệ Chi Phần 8

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 71.01 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nói về sở thích ăn ở thì loài người ăn thịt dê thịt bò thịt lợn lấy đó làm ngon, nhưng loài hươu nai lại cho ngon là lá cây lá cỏ. Loài người ở trong chỗ ẩm thấp thì không chịu nổi trong khi con lươn lại lấy chỗ ẩm thấp làm chỗ ở lý tưởng của mình.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TƯ DUY PHƯƠNG ĐÔNG NHÌN DƯỚI ÁNH SÁNG HỌC THUYẾT EINSTEIN Tác giả: Nguyễn Huệ Chi Phần 8lại so với những loài sống đến hàng nghìnnăm như con rùa hay cây “xuân” thì ôngBành Tổ lại là người chết yểu. Nói về sởthích ăn ở thì loài người ăn thịt dê thịt bòthịt lợn lấy đó làm ngon, nhưng loài hươunai lại cho ngon là lá cây lá cỏ. Loài ngườiở trong chỗ ẩm thấp thì không chịu nổi trongkhi con lươn lại lấy chỗ ẩm thấp làm chỗ ởlý tưởng của mình. Loài người phải sốngtrên cây thì run trong khi con khỉ coi chỗ ởtrên cây là nơi tốt nhất. Nói về đẹp xấu thìloài người khen Mao Tường, Lệ Cơ là tuyệtđẹp trong khi hươu nai nhìn thấy họ lại chạyxa, chim chóc nhìn thấy họ đều bay mất.Tiếp thu quan điểm “vận động” của Lão Tử,Trang Tử cũng xem xét sự vật ở mặt biếnthiên và chỉ ra giữa thời này và thời khác,tiêu chí về tốt xấu, thật giả không còn đồngnhất. Nàng Lệ Cơ vừa phải xa cha mẹ vềnhà chồng thì khóc sướt mướt song đến khivề với vua Hiến Công nước Tấn, được nếmcao lương mỹ vị lại thấy chuyện khóc lócngày trước là sai lầm. Bầy khỉ của một ônggià lần đầu cho ăn “sáng bốn chiều ba” thìkêu gào, lần sau cho ăn “sáng ba chiềubốn” thì vui thích. Trang Tử còn nhận thấy ýnghĩa tương đối của vạn vật đặt trongnhững không gian khác biệt nhau. Con chimbằng to lớn ở biển Bắc bay lên chín vạndặm rồi băng mình về biển Nam, cảm thấytrời xanh là rộng lớn, nhưng con chim cút ởtrong đầm lại cười chê nó, vì đối với cútbầu trời cao vài nhận và đám cỏ bồng cỏcảo quanh đầm nước đã làm nó thấy caorộng lắm rồi. Cuối cùng Trang Tử đi đến:coi “sống ngang với chết, chết ngang vớisống” (Phương sinh phương tử, phương tửphương sinh 方 生 方 死 。方 死方 生); tỉnhngang với mộng, mộng ngang với tỉnh(Khổng Khâu khi giảng đạo lý là nằm mộng,Cô Thước Tử khi nhắc lời Khổng Khâu lànằm mộng, mà Trường Ngô Tử khi bảo haingười đó nằm mộng thì chính mình cũngnằm mộng nốt - Khâu dã dữ nhữ giai mộngdã, dư vị nhữ mộng diệc mộng dã 丘 也 與汝 皆 夢 也 。予 謂 汝 夢 亦 夢 也); “khôngcó vật nào không phải là vật khác, khôngcó vật nào không phải là vật này” (Vật vôphi bỉ, vật vô phi thị 物 無 非 彼 。物 無 非是); “cái kia là từ cái này mà ra, cái nàycũng từ cái kia mà có” (Bỉ xuất ư thị, thịdiệc nhân bỉ 彼 出 於 是 。是 亦 因 彼); “cáicó thể cũng ngang với cái không thể, cáikhông thể cũng ngang với cái có thể”(Phương khả phương bất khả, phương bấtkhả phương khả 方 可 方 不 可 。方 不 可方 可). Mấu chốt đáng nói trong kiến giảicủa Trang là ông muốn cởi bỏ cho conngười cái lầm lẫn tệ hại của ý thức “saibiệt”, là nguồn gốc bao nhiêu khổ đau củanhân loại khi phải liên miên khắc phục mộtvế - vế “ác” vế “xấu” để bảo tồn một vế - vế“thiện” vế “hay”. Ông nói: “Dựa vào chỗ lớnđể nói rằng lớn thì không vật nào là khônglớn, dựa vào chỗ nhỏ để nói rằng nhỏ thìkhông vật nào là không nhỏ” (Nhân kỳ sởđại nhi đại chi tắc vạn vật mạc bất đại,nhân kỳ sở tiểu nhi tiểu chi tắc vạn vậtmạc bất tiểu 因 其 所 大 而 大 之 則 萬 物莫 不 大 。因 其 所 小 而 小 之 則 萬 物 莫不 小); “Dựa vào chỗ hữu dụng để nói rằnghữu dụng thì không vật nào là không hữudụng, dựa vào chỗ vô dụng để nói rằng vôdụng thì không vật nào là không vô dụng”(Nhân kỳ sở hữu nhi hữu chi tắc vạn vậtmạc hữu, nhân kỳ sở vô nhi vô chi tắc vạnvật mạc vô 因 其 所 有 而 有 之 則 萬 物 莫有 。因 其 所 無 而 無 之 則 萬 物 莫 無);“Dựa vào chỗ phải mà nói rằng phải thìkhông vật nào là không phải, dựa vào chỗtrái mà nói rằng trái thì không vật nào làkhông trái” (Nhân kỳ sở nhiên nhi nhiên chitắc vạn vật mạc bất nhiên, nhân kỳ sở phinhi phi chi tắc vạn vật mạc bất phi 因 其 所然 而 然 之 則 萬 物 莫 不 然 。因 其 所 非而 非 之 則 萬 物 莫 不 非 ) [2 ] . Nếu chỉ luận giải trên câu chữ, ta có thểngờ tư tưởng Trang Tử đã có chiều mấpmé ranh giới một dạng phát ngôn hoài nghichủ nghĩa trộn lẫn với tương đối chủ nghĩa.Tuy nhiên, F. Julien nghiền ngẫm kỹ vănbản Trang Tử , đã tìm cách đính chính giúpông [3] . Nguyễn Hiến Lê, một trong nhữngngười dịch Trang Tử có tiếng ở Việt Namcũng biện hộ cho ông [4] . Quan điểmtương đối của Trang sở dĩ không rơi vàochủ nghĩa hoài nghi và cũng “khéo léo vượtqua” chủ nghĩa tương đối vì chính ra ôngvẫn không cực đoan hóa “cái một”, khônghoàn toàn quy mọi khác biệt về một. Vốnrất ghét mấy nhà “hữu vi” như Nho và Mặcbày ra nào pháp độ, nào lễ tín, ghét cuộcchiến tranh khốc liệt giữa các chư hầutrong thời Chiến quốc đặt ách áp bức củadân tộc này lên dân tộc khác khiến tự docủa con người mất đi, song ông vẫn đủ tỉnhtáo để thấy đâu là chừng mực hợp lý củanhững yêu cầu “tuyệt nhân nghĩa”, “thỏatiêu dao”... Theo F. Julien, ngay trong thiên“Tề vật luận”, khi Trang nói đến “cái một”như kết quả quy đồng giữa ta và khách thể(mọi vật đều giống nhau) tức là đã thêmvào “cái một” được Trang nhận thức, vậyđã là hai chứ không phải một. Và từ hai hợpvới “cái một” ban đầu - khi chưa quy đồng -thì đã thành ba [5] . Còn theo Nguyễn HiếnLê cũng dẫn xuất từ thiên “Tề vật luận”, thìTrang Tử tuy biết “thị-phi” vốn đích thựckhông phải hai, vẫn chủ trương “dung hòanó, lấy “thị-phi” để làm tốt đẹp mối quânbình t ...

Tài liệu được xem nhiều: