Danh mục

Từ tính vị thuốc cổ truyền đến tính vị trong thực phẩm

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 132.47 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ tính vị thuốc cổ truyền đến tính vị trong thực phẩmThuốc cổ truyền có tính và vị Thuốc cổ truyền nói riêng cũng như với thực phẩm mà chúng ta dùng hàng ngày, nói chung, cũng luôn luôn gắn liền với cái được gọi là "tính" của chúng. Đương nhiên để có cái "tính trời cho này", ắt phải có một cái gốc của vật chất sinh ra nó; cái gốc ở đây lại chính là cái "vị" của chúng đó. Và chính cái tính, vị này của thuốc cổ truyền, cũng được thay đổi qua các phương pháp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Từ tính vị thuốc cổ truyền đến tính vị trong thực phẩm Từ tính vị thuốc cổ truyền đến tính vị trong thực phẩmThuốc cổ truyền có tính và vịThuốc cổ truyền nói riêng cũng như vớithực phẩm mà chúng ta dùng hàng ngày,nói chung, cũng luôn luôn gắn liền vớicái được gọi là tính của chúng. Đươngnhiên để có cái tính trời cho này, ắtphải có một cái gốc của vật chất sinh ranó; cái gốc ở đây lại chính là cái vị củachúng đó. Và chính cái tính, vị này củathuốc cổ truyền, cũng được thay đổi qua Ngũ vị tử.các phương pháp chế biến của con người.Chẳng hạn: sinh địa, có vị đắng, tính lương, dùng trị chứng huyết nhiệt, xuất huyết..., saukhi nấu với gừng, rượu, sa nhân, nó trở thành thục địa, vị lại ngọt, tính lại ôn, dùng để bổhuyết cho những người thiếu máu... Vì thế cũng cần phải nắm được những bí quyết nàyđể biết cách sử dụng tốt thuốc cổ truyền cũng như ứng dụng chọn các thực phẩm hàngngày sao cho phù hợp với tình cơ địa của từng người.Vị của thuốc cổ truyềnThuốc cổ truyền là những dược liệu có nguồn gốc từ thực vật, động vật và khoáng vật,Đông y đã nhận biết ở chúng có ngũ vị, tức năm vị, thông qua cảm giác của lưỡi bằngcách nhấm; đó là: chua (ngũ vị tử, sơn thù du, chua ngút...); đắng (hoàng liên, xuyên tâmliên, khổ sâm...), ngọt (cam thảo bắc, cam thảo dây, cỏ ngọt...); cay (gừng, ngô thù du,quế...); mặn ( hải tảo, mẫu lệ, hạ khô thảo...). Trong thực tế, còn 2 vị nữa là vị nhạt (đăngtâm thảo, thông thảo...) và vị chát (kha tử, thạch lựu bì, binh lang...), tức 7 vị. Song vì đểphù hợp với học thuyết Ngũ hành, người ta chỉ chọn lấy 5 vị chính để ghép vào 5 hành:Mộc (chua), Hỏa (đắng), Thổ (ngọt), Kim (cay), Thủy (mặn). Nếu đem các vị đó quytheo học thuyết Âm - Dương thì vị chua, đắng, mặn thuộc âm, còn vị ngọt, cay thuộcphạm trù dương.Tính của thuốc cổ truyềnYHCT tổng kết, thuốc cổ truyền có 4 tính, hay còn gọi là tứ khí; đó là hàn (thạch cao,hoàng bá, tri mẫu...); nhiệt (phụ tử, đại hồi, đinh hương...); ôn (bạch chỉ, kinh giới, tôdiệp...); lương (bạc hà, cúc hoa, mạn kinh tử...). Nếu quy theo thuyết âm dương thì tínhhàn, lương thuộc âm; dĩ nhiên, tính lương (tính mát), có độ lạnh ít hơn tính hàn. Trênthực tế lâm sàng chúng có khả năng trị được các chứng bệnh thuộc triệu chứng dương:sốt, nóng trong người, táo bón, tiểu đỏ, lượng ít, da ngứa, đỏ, các niêm mạc miệng, lưỡiđỏ... Còn thuốc có tính ôn, nhiệt thuộc dương; tính ôn có độ nóng ít hơn tính nhiệt.Trên lâm sàng chúng có khả năng trị được các chứng, bệnh thuộc triệu chứng âm: Cơthể luôn có cảm giác lạnh, chân tay, sống lưng lạnh, nước tiểu nhiều, phân sống nát, đaubụng lạnh, da xanh, niêm mạc miệng, lưỡi nhợt nhạt... Như vậy, giữa hai vế của tính hànlương và tính ôn nhiệt, còn có một tính nữa, mang tính trung gian, không thiên về lạnh vàcũng không thiên về nóng, đó là tính bình (thông thảo, mộc thông...). Thuốc có tính bìnhcó tác dụng thẩm thấp lợi niệu, giải độc..., dùng tốt trong các trường hợp viêm gan, viêmthận, viêm đường tiết niệu, phù thũng...Mối quan hệ giữa tính và vị của thuốc cổ truyềnTrên thực tế, tính và vị của thuốc cổ truyền có một mối quan hệ hữu cơ. Từ vị của thuốcsẽ sinh ra tính tương ứng, chúng không tách rời nhau mà luôn thể hiện song hành. Nhữngvị thuốc có vị đắng, chua, mặn thì chúng thường có tính lương hoặc hàn, nói chung làtính âm. Còn những vị thuốc có vị cay, ngọt, chát thì chúng lại có tính ôn hoặc nhiệt, nóichung là tính dương. Những vị thuốc có vị nhạt thì đi đôi với tính bình.Người ta thấy rằng những vị thuốc có tính và vị giống nhau hoặc gần giống nhau, thườngcó tác dụng cũng tương tự nhau. Chẳng hạn các vị: hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm, đềucó vị đắng, tính hàn, đều có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, thanh nhiệt giải độc... đã đượcphối hợp trong phương Tam hoàng thang, với liều đồng lượng, đã phát huy tác dụngtốt trong chữa trị các bệnh mang tính viêm nhiễm: Viêm gan, viêm túi mật, viêm bàngquang, viêm ruột...Ứng dụng của tính vị trong đời sống:Thuốc cổ truyền và thực phẩm đều có tính” và “vị riêng. Do đó sự cần thiết của việcứng dụng tính vị của thực phẩm sao cho phù hợp là hoàn toàn có ý nghĩa đối với mọingười. Chẳng hạn những người cơ địa hàn: người hay lạnh, chân tay lạnh, bụng sôi, phânsống nát..., không nên ăn các thức ăn mang tính sống (rau sống, nộm...), lạnh: rau dền,mồng tơi, rau đay, các loại cá, cua, sữa bò... Hàng ngày khi chế biến thức ăn nên thêmcác gia vị cay, nóng (gừng, riềng, hạt tiêu...). Nếu không, do cơ thể đã hàn lại gặp cácthực phẩm cũng mang tính hàn, sẽ làm bệnh thêm trầm trọng hơn. Ngược lại, nhữngngười cơ địa nhiệt: người nóng, sốt, bốc hỏa, ngứa, táo bón, tiểu buốt dắt... không nên ănuống các thức ăn mang tính cay nóng: rượu, bia, ớt, tỏi, hạt tiêu, hoặc các thực phẩm cótẩm gia vị hồi, quế, gừng... Hàng ngày cũng nên bổ sung thêm các thức ăn tươi mát: Dưachuột, rau xanh, nước cam, chanh... Nếu khôn ...

Tài liệu được xem nhiều: