Danh mục

Ung thư đường mật vùng rốn gan: Đặc điểm hình thái học quyết định tiên lượng sống còn

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 366.51 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhóm nghiên cứu ung thư gan của Nhật Bản-LCSGJ-(2000) phân loại u klatskin thành 3 dạng: dạng nhú (dạng polyp), dạng khối, dạng thâm nhiễm và cho rằng mỗi dạng u có tiên lượng khác nhau. Liệu tại Việt Nam có kết quả tương đồng hay không là điều chưa được biết, đơn giản vì tỉ lệ có thể mổ triệt để quá thấp và giải phẫu bệnh không mô tả dạng đại thể sau mổ, nhiên cứu này nhằm giải đáp câu hỏi trên.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ung thư đường mật vùng rốn gan: Đặc điểm hình thái học quyết định tiên lượng sống cònY Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015Nghiên cứu Y họcUNG THƯ ĐƯỜNG MẬT VÙNG RỐN GAN:ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI HỌC QUYẾT ĐỊNH TIÊN LƯỢNG SỐNG CÒNĐỗ Hữu Liệt*, Nguyễn Tấn Cường**TÓM TẮTĐặt vấn đề: Ung thư đường mật vùng rốn gan- u Klatskin- là một loại ung thư hiếm gặp (chiếm 2% ungthư đường tiêu hóa), tiên lượng xấu, tỉ lệ có thể phẫu thuật triệt để thấp (tỉ lệ này tại châu Âu và Mỹ từ 5-18%,tại Việt Nam từ 0-14,5%). Nhóm nghiên cứu ung thư gan của Nhật Bản- LCSGJ- (2000) phân loại u Klatskinthành 3 dạng: dạng nhú(dạng polyp), dạng khối, dạng thâm nhiễm và cho rằng mỗi dạng u có tiên lượng khácnhau. Liệu tại Việt Nam có kết quả tương đồng hay không là điều chưa được biết, đơn giản vì tỉ lệ có thể mổ triệtđể quá thấp và giải phẫu bệnh không mô tả dạng đại thể sau mổ. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm giảiđáp câu hỏi trên.Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, đánh giá mức độ xâm lấn của khối u (theo từng dạng đại thể) trênđường mật, tĩnh mạch cửa, động mạch gan, nhu mô gan sau khi mổ triệt để (cố gắng cắt u đến khi 2 đầu phẫuthuật không còn tế bào ác tính, cắt ống mật chủ, kèm theo cắt gan trái, cắt gan phải hoặc cắt gan trung tâm và cắtthùy đuôi của gan cộng với nạo hạch vùng rốn gan). Ghi nhận tai biến, biến chứng, tử vong và thời gian sốngliên quan đến từng dạng đại thể của u theo phân loại của LCSGJ.Kết quả: Từ tháng 8/2008 đến tháng 12/2013, chúng tôi thực hiện 46 trường hợp (TH) gồm 32 nam(69,6%), 14 nữ (30,4%); tuổi trung bình 51,1±9,9 (35-74), đã được mổ triệt để điều trị ung thư đường mật vùngrốn gan. Về đại thể, có 31 trường hợp (TH) dạng thâm nhiễm chiếm 67,4%, 12 TH dạng khối (26,1%), 3 THdạng polyp (6,5%).Tai biến trong mổ gồm rách tĩnh mạch cửa 10 TH (21,7%), rách động mạch gan 5 TH(10,9%), rách động mạch gan và tĩnh mạch cửa 5 TH (10,9%), rò mật sau mổ điều trị bảo tồn thành công 17 TH(37%). Có 4 TH tử vong sau mổ do nhiễm trùng huyết và suy gan. Các tai biến, biến chứng này hầu hết ở dạngthâm nhiễm. Trong số bệnh nhân theo dõi có 2 TH mất liên lạc sau 3 tháng. Có 1 TH dạng nhú sống sau 5 năm.Kết luận: Đa số u Klatskin có dạng thâm nhiễm, là loại có tai biến, biến chứng sau mổ cao hơn và thời giansống ngắn hơn so với dạng khối và dạng polyp.Từ khoá: U Klatskin, dạng đại thể khối u, cắt đường mật rộng rãi, thời gian sống còn.ABSTRACTHILAR CHOLANGIOCARCINOMA: MORPHOLOGIC CLASSIFICATION PATTERN HAD IMPACTSON SURVIVAL AFTER EXTENSIVE RESECTIONDo Huu Liet, Nguyen Tan Cuong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 249 - 255Background: Hilar cholangiocarcinoma- Klatskin’s tumor- is a rare type of bile duct cancer (comprises of2% of overall malignancies of GI tract) with poor prognosis and low rate of radical resection (around 5-18% inEurope and America, 0-14.5% in Vietnam). The Liver Cancer Study group of Japan (2000)- LCSGJ- hadadvocated classification of Klatskin’s tumor into 3 types according to morphologic aspects: papillary type, nodulartype and infiltrative type with different prognosis between them. Whether similar results will be found in Vietnamis unknown, simply because of low radical resection rate and no pathologic morphology has been mentioned. Thisstudy has been set up in order to answer this question.* Khoa Ngoại Gan Mật Tụy, Bệnh viện Chợ Rẫy ** Bộ môn Ngoại, Đại học Y Dược TPHCMĐT: 0913 849 434E-mail: dohuuliet73@yahoo.comTác giả liên lạc: BS. Đỗ Hữu LiệtNgoại Tổng Quát249Nghiên cứu Y họcY Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015Methods: Prospective analysis of the invasiveness of Klatskin’s tumor- according to various tumor type- intobile duct, portal vein, hepatic artery, liver parenchyma. CBD was resected together with the tumor and R0resection confirmed with frozen section. Left or right lobe, or central part of the liver plus the caudate lobe wereremoved, completed by regional lymph nodes dissection. Morbity, complication, mortality and survival wererecorded subject to various pathologic morphology according to LCSGJ classificationResults: From August 2008 to December 2013, 46 patients (32 males-69.6%, and 14 females – 30.4%);median age 51.1±9.9 (range, 35-74) with Klatskin’s tumor were radically operated, By gross morphology, 31(67.4%) had infiltrative type and 12 (26.1%) had nodular type, 3 (6.5%) papillary type has been noted. Therewere incidental laceration of portal vein in 10 patients (21.7%), hepatic artery laceration in 5 patients (10.9%),portal vein and hepatic artery laceration in 5 patients (10.9%). 17 patients (43.5%) had bile leakage which weretreated conservatively . There were 4 patients (8.7%) for post-op mortality due to septicemia and acute liverfailure. The morbidities and mortalities were almost occured in infiltrative group. One patient in papillary roupwas living for 5 years. Two patients dropped of from follow-up after ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: