Thông tin tài liệu:
Ung thư vú: Đừng để quá muộn!Ung thư vú không phải là một đề tài mới, nhưng lại chưa bao giờ cũ vì căn bệnh thường gặp nhất trong các bệnh ung thư này vẫn luôn rình rập những người phụ nữ và người thân của họ.Đừng để quá muộn!Đừng để mọi chuyện trở nên muộn màng. Trang bị cho mình những kiến thức và biết tự bảo vệ mình chính là cách bạn mang lại hạnh phúc cho chồng con và người thân.Tỷ lệ mắc ung thư vú trong những năm gần đây có xu hướng tăng lên tại...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ung thư vú: Đừng để quá muộn! Ung thư vú: Đừng để quá muộn!Ung thư vú không phải là một đề tài mới, nhưng lại chưa bao giờ cũ vì căn bệnhthường gặp nhất trong các bệnh ung thư này vẫn luôn rình rập những người phụ nữvà người thân của họ.Đừng để quá muộn!Đừng để mọi chuyện trở nên muộn màng. Trang bị cho mình những kiến thức và biết tựbảo vệ mình chính là cách bạn mang lại hạnh phúc cho chồng con và người thân.Tỷ lệ mắc ung thư vú trong những năm gần đây có xu hướng tăng lên tại nhiều nước, đặcbiệt ở một số nước đang phát triển do thay đổi theo lối sống phương Tây, tuy nhiên tỷ lệtử vong do ung thư vú lại đang giảm đi nhờ các biện pháp sàng lọc phát hiện sớm.Trong nhiều năm qua, tại bệnh viện K, có khoảng 70% bệnh nhân ung thư vú đến việnkhi đã ở giai đoạn muộn, bệnh đã có biểu hiện di căn hạch hoặc di căn xa. Trong khi nếubệnh được phát hiện sớm và điều trị kịp thời thì 80% bệnh nhân ở giai đoạn sớm có thểđược chữa khỏi bệnh.Đối với bệnh ung thư nói chung và ung thư vú nói riêng, việc nhận biết được các yếu tốnguy cơ và phòng tránh chúng có thể làm giảm được 1/3 nguy cơ mắc bệnh.Các yếu tố nguy cơ bệnh ung thư vú vẫn đang được nghiên cứu, tuy nhiên một số yếu tốđược khẳng định có liên quan đến bệnh ung thư vú bao gồm:1. Yếu tố gia đình: Được xếp vào nhóm nguy cơ cao gồm những người có tiền sử gia đìnhbị ung thư vú như: mẹ, chị em gái.Phụ nữ có mẹ, chị em gái bị ung thư vú có nguy cơ mắc ung thư vú cao gấp 2 - 3 lần sovới phụ nữ có mẹ, chị em gái không bị ung thư vú.Những phụ nữ ung thư vú có liên quan đến tiền sử gia đình thường có xu hướng trẻ hơnvà có tỷ lệ ung thư vú hai bên cao hơn.2. Gen: Biến đổi (hay đột biến) một số gen có thể làm tế bào chuyển thành ác tính.Năm 1994, người ta tìm thấy sự liên quan giữa đột biến gen ức chế u BRCA-1 và BRCA-2 nằm trên nhiễm sắc thể 17 và 13 với ung thư vú, ung thư buồng trứng và một số loạiung thư khác.Do nằm trên nhiễm sắc thể thường, các gen này có thể di truyền từ bố hoặc mẹ (50% cókhả năng nhận từ bố, 50% có khả năng nhận từ mẹ). Những phụ nữ mang các gen này cónguy cơ cao bị ung thư vú.Khoảng 5% các trường hợp ung thư vú có đột biến gen BRCA-1 và thường bị bệnh khicòn trẻ. Ngoài ra, gen này cũng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng, ung thư tiền liệttuyến và đại tràng.Đột biến gen BRCA-2 cũng có nguy cơ gây ung thư vú ở nữ tương đương với nguy cơđột biến gen BRCA-1. Ung thư buồng trứng cũng có thể xảy ra với đột biến gen nàynhưng nguy cơ thấp hơn so với gen BRCA-1.Đột biến gen p53 và một số gen khác cũng liên quan với nguy cơ ung thư vú. Những hộichứng do các rối loạn về di truyền như hội chứng Li-Fraumeni, hội chứng Cowden, hộichứng Muir, giãn mạch thất điều cơ cũng có thể làm xuất hiện ung thư vú. Những nghiêncứu gần đây cho thấy có khoảng 10% ung thư vú do di truyền.3. Tuổi: Tuổi càng cao, nguy cơ mắc ung thư vú càng tăng. Số bệnh nhân bắt đầu bị bệnhlúc trên 50 tuổi chiếm trên 70% tổng số bệnh nhân ung thư vú. Phụ nữ dưới 30 tuổi rấthiếm khi mắc ung thư vú.4. Các yếu tố nội tiết: Ung thư vú là một trong số các ung thư có liên quan mật thiết vớinội tiết nữ, cụ thể là estrogen được sản xuất chủ yếu tại buồng trứng.Một trong những tác dụng của estrogen là làm tăng sinh các tế bào biểu mô tuyến vú, cầnthiết cho quá trình sinh sản, nuôi con.Tuy nhiên, nếu tế bào tuyến vú tiếp xúc với estrogen quá nhiều, các tế bào tăng sinhmạnh kết hợp với các đột biến có thể xảy ra trong quá trình phân chia tế bào sẽ có khảnăng phát triển thành ung thư vú.Do đó những yếu tố làm tăng thời gian tiếp xúc của tuyến vú với estrogen đều có thể làmtăng nguy cơ ung thư vú.Có thể liệt kê một số yếu tố sau:- Tuổi bắt đầu có kinh sớm làm tế bào tuyến vú sớm tiếp xúc estrogen. Những người cókinh sớm cũng có nồng độ estrogen cao hơn những người có kinh muộn.- Tuổi mãn kinh muộn hoặc đã mãn kinh nhưng dùng nội tiết thay thế có chứa estrogencũng làm tăng nguy cơ ung thư vú.Nguy cơ ung thư vú có thể giảm một nửa ở phụ nữ mãn kinh trước 45 tuổi so với mãnkinh sau 55 tuổi. Những phụ nữ chưa mãn kinh nhưng phải cắt bỏ buồng trứng vì một lýdo nào đó cũng giảm nguy cơ ung thư vú.- Mang thai và ung thư vú cũng có mối liên quan. Những phụ nữ không sinh con có nguycơ bị ung thư vú cao gấp 1,4 lần phụ nữ sinh con. Nếu phụ nữ mang thai lần đầu sau 30tuổi có nguy cơ bị bệnh gấp 2 đến 5 lần so với phụ nữ mang thai ở độ tuổi trước 30.- Không cho con bú cũng là một yếu tố nguy cơ. Nguy cơ ung thư vú sẽ giảm 4% chomỗi năm mà người phụ nữ cho con bú.- Tiền sử bị các bệnh tại vú: Viêm vú trong khi sinh đẻ và một số bệnh vú lành tính nhưquá sản không điển hình (atypical hyperplasia) cũng là các yếu tố tăng nguy cơ mắc ungthư vú.- Ít vận động, béo phì: Những phụ nữ béo, đặc biệt khi đã mãn kinh liên quan với nguy cơung thư vú tăng. Người ta cho rằng estrogen được sinh ra trong mô mỡ đã làm tăng nguycơ ung thư vú ở những người này. Nguy cơ ung th ...