Danh mục

Vài nét sơ lược về sự Phát triển của Triết học Trung Hoa - Phần 7

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 137.03 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Có lẽ vào khoảng Khổng Tử mất (năm 479 tr. tây lịch) thì Mặc Tử, triết gia cách mạng đầu tiên của Trung Quốc, ra đời. Sử không chép Mặc Tử có theo học Khổng giáo không, nhưng ông sinh ở Lỗ thì chắc chịu ảnh hưởng của Khổng. Ông làm quan ở Tống lâu năm, chắc cũng chịu ảnh hưởng của Tống nữa. Nước Tống thời đó đã có thuyết kiêm ái và phi công (phản đối chiến tranh), và hình như Tống Tương Công là người theo thuyết đó (coi Phùng Hữu Lan – Sách đã dẫn,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vài nét sơ lược về sự Phát triển của Triết học Trung Hoa - Phần 7 Vài nét sơ lược về sự Phát triển của Triết học Trung Hoa BÌNH MINH XUẤT HIỆN MẶC TỬ Có lẽ vào khoảng Khổng Tử mất (năm 479 tr. tây lịch) thì Mặc Tử, triết gia cách mạng đầu tiên của Trung Quốc, ra đời. Sử không chép Mặc Tử có theo học Khổng giáo không, nhưng ông sinh ở Lỗ thì chắc chịu ảnh hưởng của Khổng. Ông làm quan ở Tống lâu năm, chắc cũng chịu ảnh hưởng của Tống nữa. Nước Tống thời đó đã có thuyết kiêm ái và phi công (phản đối chiến tranh), và hình như Tống Tương Công là người theo thuyết đó (coi Phùng Hữu Lan – Sách đã dẫn, thiên I, chương V). Trang Tử phê bình Mặc Tử: “Cái sáng suốt của Mặc, người ta có thể theo được, cái ngu của ông thì không ai theo được”, cũng là nhận Mặc Tử chịu ảnh hưởng nhiều của Tống. Vì người Tống bị người các nước khác chê là ngu; như Mạnh Tử bảo nước Tống có kẻ thấy mạ chậm cao, mà nhớm nó lên; Hàn Phi Tử thì kể rằng nước Tống có kẻ ôm cây mà chờ thỏ. Ông con nhà bình dân, không có cảm tình với bọn quí tộc và không tán thành chế độ quí tộc của nhà Chu; rất có nhiệt tâm, có tài biện luận, cực đoan cứu thế, không thủ cựu, ôn hoà như Khổng Tử. Nhiều triết gia thời sau bài xích thuyết của ông nhưng đều phải nhận rằng ông hết lòng với xã hội, “mòn trán lỏng gót” lo cho thiên hạ (Mạnh Tử), “thực là một người tốt ở gầm trời, muốn tìm cũng không thấy được” (Trang tử). Đời Tiên Tần mà cả những đời sau nữa, quả không có được người thứ hai như ông. Về vũ trụ quan, ông không phát minh được gì, ông rất tin Trời, tin quỷ thần (có lẽ cũng do ảnh hưởng của Tống), với ông Trời là đấng chúa tể, quản lãnh mọi việc trên thế gian, ai thuận ý Trời thì được thưởng, trái ý Trời thì bị phạt, mà muốn thuận ý Trời thì phải yêu khắp mọi người vì Trời muốn cho loài người được sung sướng. Quỷ thần, theo Mặc Tử, cũng sáng suốt và có lòng nhân, nên người phải thờ Trời và thờ cả quỷ thần nữa. Ông muốn dựng một tôn giáo trên tín ngưỡng đó, nhưng không đặt ra những lễ nghi như các tôn giáo khác (Ki-tô giáo, Hồi giáo chẳng hạn). Không rõ ông cùng môn đệ có tụng kinh không, chỉ biết chắc rằng ông không hề khấn vái để cầu phúc cho mình. Có lần ông ốm, một người hỏi ông: “Ông cho rằng quỷ thần sáng suốt, thưởng kẻ thiện, phạt kẻ ác; thế thì thánh thần như ông mà sao lại ốm? Hay là ông đã làm điều ác? Hay quỷ thần không sáng suốt?” Ông đáp rằng: “Ốm do nhiều lẽ, do thời tiết, do lao khổ…, quỷ thần mà liên quan gì đến việc đó”. Về sau, Mặc gia được tổ chức thành đoàn thể rất chặt chẽ. Người có tài đức được cử làm “cự tử” (tức như thủ lãnh) và các người trong đoàn thể hễ làm quan, có lộc, phải nộp cự tử một phần để chi dùng cho đoàn thể; bất kể lớn nhỏ phải tuân lời cự tử, dù chết cũng không dám cãi. Một lần ở Dương Thành, tám mươi ba đệ tử cùng chết với cự tử tên là Mạnh Thắng; lần khác, người con trai của một cự tử là Phúc Thôn giết người, Tần Huệ Vương thương Phúc Thôn tuổi đã già mà có mỗi một người con, tha tội cho nó. Phúc Thôn không chịu, tâu: “Cái phép của đạo Mặc, giết người thì phải tội chết, đả thương người thì bị tội hình; như vậy là để cấm giết người và đả thương người; cấm giết người và đả thương người là đại nghĩa của thiên hạ. Mặc dù nhà vua tha tội không giết nó, nhưng Phúc Thôn không thể không thi hành phép của đạo Mặc”. Rồi người cha đó giết con. Trong lịch sử của Trung Hoa chưa bao giờ mà sự mâu thuẫn giữa gia đình và xã hội đưa tới bi kịch ghê gớm như vậy, cũng chưa bao giờ có một đảng mà kỷ luật nghiêm đến như vậy. Thực trái với chủ trương trung hoà của Khổng. Về tri thức luận, Mặc Tử phát minh ra phép “ba biểu”. Nói thì phải - có “gốc”, căn cứ vào việc xem xét bản thuỷ, - có cái làm “nguyên”, căn c ứ vào việc quan sát sự cố - có chỗ “ứng”. “Gốc” ở việc đời xưa; “nguyên” là việc trước tai mắt mọi người đem ra mà chứng thực; “ứng” ở chỗ phù hợp với quyền lợi của mọi người. Gốc, nguyên, ứng gọi là “ba biểu”. Phương pháp đó – căn cứ và kết quả ứng dụng – mở đầu cho môn đệ Mặc gia sau này lập nên nền tảng tri thức luận của Trung Quốc. Về nhân sinh, Mặc Tử chủ trương công lợi, theo quy tắc thứ ba của phép “ba biểu”. Làm việc gì cũng phải nghĩ xem lợi hay hại, lợi lớn hay nhỏ; lợi cho số đông, lợi lâu dài là lợi lớn. Đặc biệt nhất là ông đề cao đức kiêm ái, coi mọi người như mình, phải thương yêu giúp đỡ mọi người như người thân của mình, như bản thân của mình. Nếu ai cũng theo đạo kiêm ái thì thiên hạ sẽ trị, sẽ không còn tranh cướp lẫn nhau, không còn những kẻ già nua bị bỏ đói bỏ khát, kẻ nhỏ yếu mồ côi không chỗ nương tựa. Có người nghĩ rằng ông muốn làm đại biểu cho giai cấp cần lao. Chưa chắc đã như vậy; tất nhiên là ông bênh vực họ, nhưng ông đã kiêm ái, thì đâu lại còn phân biệt giai cấp. Nhưng kiêm ái có phải là bình đẳng không? E cũng không nữa. Yêu thì yêu mọi người như nhau, nhưng xã ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: