Danh mục

Vai trò CRP và bạch cầu trong chẩn đoán nhiễm trùng

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 175.31 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vai trò của bạch cầu trong chẩn đoán nhiễm trùng: Khi nghi ngờ bệnh nhân có tình trạng viêm nhiễm, chúng ta thường xét nghiệm công thức máu để tìm tỷ lệ bạch cầu. Xét nghiệm công thức bạch cầu cho chúng ta 2 thông số gồm tổng số lượng và phần trăm các loại bạch cầu. Trong máu, như chúng ta đã biết bạch cầu có 2 loại: có hạt (BC ái toan, ái kiềm,BC đơn nhân), không hạt (lympho bào và mono bào). BC là thành phần quan trọng của hệ miễn dịch. Khi có tình trạng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò CRP và bạch cầu trong chẩn đoán nhiễm trùng Vai trò CRP và bạch cầu trong chẩn đoán nhiễm trùng Vai trò của bạch cầu trong chẩn đoán nhiễm trùng: Khi nghi ngờ bệnh nhâncó tình trạng viêm nhiễm, chúng ta thường xét nghiệm công thức máu để tìm tỷ lệbạch cầu. Xét nghiệm công thức bạch cầu cho chúng ta 2 thông số gồm tổng sốlượng và phần trăm các loại bạch cầu. Trong máu, như chúng ta đã biết bạch cầucó 2 loại: có hạt (BC ái toan, ái kiềm,BC đơn nhân), không hạt (lympho bào vàmono bào). BC là thành phần quan trọng của hệ miễn dịch. Khi có tình trạng viêm,nhiễm, chấn thương, BC tiết ra chất CSF (colony-stimulating factor). Chất nàykích thích tủy tăng sản xuất BC, còn gọi là BC chuyền trái( khi đó BC non có sốlượng lớn hơn BC trưởng thành). Ở người có tủy bình thường, số lượng BC có thểgấp đôi trong vài giờ. Cơ chế chống lại các tác nhân lạ của BC là qua cơ chế thựcbào. Sự thực bào đó chỉ mang tính tạm thời khác với bệnh BC (sự thực bào luônxảy ra và tiến triền). Xét nghiệm công thức BC được chỉ định trong các bệnh viêmvà nhiễm trùng, ung thư máu, ung thư hạch và bất thường tủy xương. Tuy nhiên,BC có thể tăng trong những trường hợp căng thẳng về thể chất lẫn tinh thần, bấtcứ một trường hợp viêm nhiễm hay căng thẳng cấp tính đều có thể làm tăng sảnxuất BC. BC có giá trị bình thường 4500-10000/microlit máu. BC có số lượngthay đỏi theo tuổi: tăng ở trẻ nhỏ, thai phụ, giảm ở người già. BC giảm trong suytủy, bệnh collagen sinh ra chất gây độc tế bào( ví dụ như lupus ban đỏ) , bệnh gan,lách, nhiễm xạ, nhiễm siêu vi, nhiễm trùng nặng. BC tăng trong bệnh nhiễm trùng,viêm (ví dụ như dị ứng, viêm khớp dạng thấp), và các bệnh không nhiễm trùngnhư thiếu máu, ung thư máu, stress nặng về thể chất và tinh thần, tổn thương mô(ví dụ như bỏng) Trong khi đó, vai trò của CRP là: protein trong máu tăng đáp ứng với viêmnhiễm. Chức năng gắn vào photphocholin trên bề mặt tế bào chết hoặc đang chếtđể hoạt hóa hệ thống bổ thể, phức hợp C1Q. CRP được tổng hợp ởgan, nhưng không liên quan đến protein C. CRP bình thường ở người khỏe mạnhnhỏ hơn 10 mg/L, tăng nhẹ theo tuổi. CRP 10-40mg/L gặp ở phụ nữ mang thai,viêm nhẹ, nhiễm siêu vi. CRP mức cao hơn 40-200mg/L gặp ở bệnh nhân có viêm,nhiễm trùng đang hoạt động, và tăng >200mg/L trong nhiễm trùng và bỏng nặng.nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy tăng CRP cũng là yếu tố nguy cơ đái tháođường, tăng huyết áp và bệnh mạch máu. Ngoài ra, CRP tăng có ý nghĩa thống kêtrong số những người bị ung thư đai tràng so với người không bị ung thư. Do đó,một số nghiên cứu cho rằng thuốc kháng viêm làm giảm nguy cơ ung thư đại tràng CRP vẫn duy trì sự tăng trong vòng 24-48 giờ sau khởi phát nhiễm trùng.Thời gian bán hủy sinh học là 19 giờ, giảm 50% nồng độ mỗi ngày sau khi kíchthích viêm cấp tính đã được giải quyết, trở về bình thường vào ngày thứ 5-7 sauđợt viêm, dù quá trình viêm đó vẫn đang tiếp diễn, trừ phi có một đợt viêm mới.Nồng độ CRP càng cao càng có tương quan với khả năng nhiễm trùng nhiều hơn.Khi phối hợp với các dữ kiện lâm sàng và xét nghiệm khác, giá trị CRP đo hàngloạt là một phương tiện hữu ích trong việc theo dõi hiệu quả điều trị và có thể gópphần trong việc giảm thiểu những trường hợp dùng kháng sinh không cần thiết. CRP có thể có những khuyết điểm sau: Mặc dù CRP có thể chỉ rằng bạnđang có viêm nhiễm nhưng nó không xác định chính xác vị trí viêm. CRP thấpchưa loại trừ được là không có nhiễm trùng. Hơn nữa, nó có thể tăng trong nhữngbệnh không liên quan đến nhiễm trùng: ví dụ ung thư, bệnh mô liên kết, cơn đauthắt ngực, lupus, viêm khớp dạng thấp, lao, viêm phổi phế cầu,hội chứng ruột kíchthích và có thể tăng ở cuối thai kỳ. Do đó, Bác sỹ thường chỉ định test này khi cầnkiểm tra cơn bùng phát của viêm khớp dạng thấp, lupus, viêm mạch máu hoặcquyết định thuốc kháng viêm có hiệu quả điều trị hay không. Hiện nay, xét nghiệmCRP cũ được cải thiện và nay được mang tên là Hs-CRP ( test đo được ngưỡngcủa CRP ở nồng độ thấp (< 0.04mg/L) thường được sử dụng trong đánh giá nguycơ tim mạch vì độ nhạy cao). Tuy nhiên đây là xét nghiệm ít phổ biến vì mắc tiền,và đòi hỏi những phương tiện kỹ thuật cao để tầm soát Trong y văn có nhiều nghiên cứu về mối liên quan giữa BC và CRP. Sauđây, xin được giới thiệu một vài nghiên cứu: Nghiên cứu ở Nhật trên 3500 người so sánh 2 yếu tố chỉ điểm viêm là Hs-CRP và bạch cầu trong máu trong hội chứng chuyển hóa. Nghiên cứu kết luậnrằng Hs-CRP trội hơn bạch cầu trong vai trò là thành phần viêm của hội chứngchuyển hóa. Nhưng bạch cầu có lợi hơn khi Hs-CRP không có sẵn và là xétnghiệm thường quy trong thực hành lâm sàng hơn Hs-CRP Nghiên cứu tiền cứu tại 1 trung tâm hồi sức của Mỹ để đánh giá giá trịCRP trong chẩn đoán và tiên lượng khả năng nhiễm trùng ở bệnh nhân bị bệnhnặng kết luận rằng bệnh nhân có CRP>50mg/L và có hội chứng đáp ứng viêm toànthân là có khả năng nhiều nhất nhiễm trùng lúc nhập viện tốt hơn thân nhiệt, xétnghiệm CRP chỉ 1 lần, và xét nghiệm bạch cầu trong máu Do đó, có thể kết luận CRP có giá trị hơn bạch cầu trong chẩn đoán nhiễmtrùng nhưng trên lâm sàng bạch cầu lại là xét nghiệm thường quy thích hợp vớicộng đồng hơn vì đơn giản, dễ làm, rẻ tiền, và có độ nhạy cao. Nguyễn Thị Quỳnh Châu (Y05) (tổng hợp và dịch từ: rnceus.com, nlm.nih.gov, en.wikipedia.org,medscape.com, diendanyduoc.net) ...

Tài liệu được xem nhiều: