Danh mục

Vai trò của cộng đồng trong ứng xử với nước ở châu thổ Bắc Bộ và Tây Nguyên Việt Nam

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 126.31 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết phân tích vai trò của cộng đồng trong ứng xử với nước, thể hiện qua: vai trò của các thầy cúng, vai trò của làng, chủ thể và khách thể của tín ngưỡng thờ nước; sự khác biệt vai trò cộng đồng với tín ngưỡng thờ nước ở hai vùng đặc thù của Việt Nam; trên cơ sở ấy, trình bày khái quát về lịch sử văn hóa - tín ngưỡng thờ nước qua các không gian văn hóa của Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của cộng đồng trong ứng xử với nước ở châu thổ Bắc Bộ và Tây Nguyên Việt Nam DI SẢN VĂN HÓA VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG ỨNG XỬ VỚI NƯỚC Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ VÀ TÂY NGUYÊN VIỆT NAM NGUYỄN CHÍ BỀNTóm tắt Ở Việt Nam, vùng châu thổ Bắc Bộ là nơi sinh sống chủ yếu của người Việt và vùng đất đỏ TâyNguyên là nơi sinh sống của 11 dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay. Nước là tài nguyên vô cùng quý giáđể họ sinh tồn và phát triển, sáng tạo một văn hóa nước: họ vừa cần nước, yêu quý nước nhưng vừa sợhãi nước. Cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ và cư dân vùng đất đỏ Tây Nguyên đều thờ cúng thần nước vàcoi đó là vị thần tối linh của họ. Sự phát triển tín ngưỡng thờ nước của cư dân cả hai vùng, đều có vaitrò to lớn của cộng đồng, nhưng vị thế địa - kinh tế, địa - lịch sử, địa - văn hóa của vùng châu thổ Bắc Bộvà vùng đất đỏ Tây Nguyên có khác biệt, nên vai trò của cộng đồng với tín ngưỡng thờ nước của cư dânhai vùng cũng khác biệt. Bài viết phân tích vai trò của cộng đồng trong ứng xử với nước, thể hiện qua:vai trò của các thầy cúng, vai trò của làng, chủ thể và khách thể của tín ngưỡng thờ nước; sự khác biệtvai trò cộng đồng với tín ngưỡng thờ nước ở hai vùng đặc thù của Việt Nam; trên cơ sở ấy, trình bày kháiquát về lịch sử văn hóa - tín ngưỡng thờ nước qua các không gian văn hóa của Việt Nam.Từ khóa: Châu thổ Bắc Bộ, Tây Nguyên, vai trò cộng đồng, thờ nước, lễ hội cổ truyềnAbstract In Vietnam, Northern delta region is the primary living space of the Viet people; whereas, the CentralHighlands region is currently the home of 11 ethnic minority groups. Water is a valuable naturalresource for their existence and development. To creat a cultural water, it’s neccessary for them to needwater, love water and fear water at the same time. Inhabitants of the Northern delta and those of theCentral Highlands both worship water gods and consider it their supreme deity. The development ofthe cult of water in the two regions has had the role of communities. However, due to the difference ingeo-economical, geo-historical and geo-cultural positions between the Northern delta and the CentralHighlands, the role of community in the cult of water in these two regions are also different. This articleanalyzes the role of community in dealing with water, manifested through: the role of priests, villages,other subjects and objects of the worship of water; the difference between roles played by communitiesin the cult of water practiced in two studied region. From that point, an overview of the cultural history- the beliefs of water worship through Vietnamese cultural spaces is presented.Keywords: Northern delta, Central Highlands, community role, water worship, traditional festivals V iệt Nam, theo GS. Trần Quốc Vượng ứng xử khác nhau với nước, hiện tượng thiên (1934 - 2005) và các cộng sự trong nhiên gần gũi với con người. giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam 1. Cộng đồng cư dân Việt châu thổ Bắc Bộ(11), chia thành 6 vùng văn hóa. Vùng văn hóa trong ứng xử với nướcchâu thổ Bắc Bộ và vùng văn hóa Trường Sơn Châu thổ Bắc Bộ, hay nói cách khác là đồng- Tây Nguyên là hai vùng văn hóa khác nhau. bằng sông Hồng, trải rộng từ vĩ độ 21034’BVị thế địa - văn hóa, địa - kinh tế của hai vùng (huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) tới vùng bãikhác nhau, đem đến cho cư dân nơi đây hai bồi khoảng 1905’B, từ 105017’Đ (huyện Ba Vì,Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 5 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU thành phố Hà Nội) đến 10707’Đ (trên đảo Cát Bắc Bộ. Năm 1936, Pierre Gourou công bố dữ Bà, thành phố Hải Phòng). Toàn vùng có diện liệu “tổng diện tích của tỉnh Bắc Ninh là 110.367 tích trên 14.860km2, chiếm khoảng 4,5% diện ha, đất đai không dùng cho trồng trọt (làm nhà ở, sông ngòi, gò đất, v.v.) chiếm diện tích tích cả nước Việt Nam. Là địa bàn của hai thành 82.543ha tức là gần 20% diện tích đất đai không phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng) trồng trọt mà chúng tôi đã quy cho toàn bộ và 8 tỉnh (Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương, Hưng châu thổ, ruộng lúa chiếm diện tích 82.543ha, Yên, Nam Định, Thái Bình, Vĩnh Phúc và Ninh và đất đai chỉ chuyên trồng những cây khác Bình), châu thổ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: