Danh mục

Vai trò của gene và môi trường

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 133.36 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mặc dù có một số tính trạng chỉ chịu ảnh hưởng của gene hoặc chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường nhưng hầu hết đều chịu ảnh hưởng của cả hai yếu tố này. Việc xác định mức độ ảnh hưởng tương đối của các yếu tố môi trường và di truyền lên sự hình thành tính trạng sẽ giúp hiểu biết tốt hơn về bệnh căn cũng như giúp xây dựng các chiến lược y tế cộng đồng. Có hai hướng nghiên cứu thường được dùng để đánh giá mức độ ảnh hưởng tương đối của các gene và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của gene và môi trường Vai trò của gene và môi trườngMặc dù có một số tính trạng chỉ chịu ảnh hưởng của gene hoặc chỉ chịu ảnhhưởng của môi trường nhưng hầu hết đều chịu ảnh hưởng của cả hai yếu tốnày. Việc xác định mức độ ảnh hưởng tương đối của các yếu tố môi trườngvà di truyền lên sự hình thành tính trạng sẽ giúp hiểu biết tốt hơn về bệnh căncũng như giúp xây dựng các chiến lược y tế cộng đồng.Có hai hướng nghiên cứu thường được dùng để đánh giá mức độ ảnh hưởngtương đối của các gene và môi trường là (1) nghiên cứu con sinh đôi (twinresearch) và (2) nghiên cứu con nuôi (adoption study).1. Nghiên cứu con sinh đôiDo sinh đôi cùng trứng có sự tương đồng về mặt di truyền, bất kỳ sự khácnhau nào giữa chúng đều chỉ có thể do kết quả tác động của môi trường. Cáctrẻ sinh đôi cùng trứng rất giống nhau về các tính trạng chỉ do gene quy định.Các trẻ sinh đôi khác trứng trở thành một mẫu chứng phù hợp cho nghiên cứuvì sự khác nhau về các yếu tố môi trường sẽ tương tự như trong trường hợpsinh đôi cùng trứng nhưng chúng lại có sự khác nhau về mặt di truyền tươngtự như trong các anh chị em ruột.Trong nghiên cứu con sinh đôi, việc so sánh giữa các trẻ sinh đôi cùng trứngvà khác trứng sẽ được thực hiện. Nếu cả hai trẻ sinh đôi đều có cùng chungmột tính trạng hoặc bệnh (ví dụ như đều mắc tật khe hở môi) chúng ta gọi đólà có tương hợp (concordant) còn nếu hai trẻ không có cùng biểu hiện chúngta gọi đó là không tương hợp (disconcordant).Tỷ lệ tương hợp (hoặc hệ số tương quan) ở các cặp sinh đôi cùng trứng vàkhác trứng cũng có thể được dùng để đo khả năng di truyền (heritability: h)của các tính trạng di truyền đa yếu tố. Một công thức đơn giản dùng để đánhgiá khả năng di truyền h từ tỷ lệ tương hợp là : h = 2(CMZ - CDZ)Trong đó: - CMZ: tỷ lệ tương hợp ở các trẻ sinh đôi cùng trứng - CDZ: tỷ lệ tương hợp ở các trẻ sinh đôi khác trứngCác tính trạng được quy định chủ yếu bởi yếu tố di truyền sẽ có h xấp xỉ bằng1,0, nghĩa là CMZ = 1,0 và CDZ = 0,5. Khi sự khác biệt giữa các tỷ lệ tươnghợp bé hơn, khả năng di truyền sẽ tiến tới bằng 0,0.Tỷ lệ tương hợp (hoặc hệ số tương quan) của một số tính trạng hoặc bệnhđược trình bày trong bảng 1. Giá trị h có tính đặc hiệu cho từng quần thể màtrong đó chúng được đánh giá.Bảng 1: Tỷ lệ tương hợp của một số tính trạng hoặc bệnh(CT: cùng trứng; KT: khác trứng; h: khả năng di truyền) Tính trạng hoặc bệnh Tỷ lệ tương hợp h Sinh đôi Sinh đôi CT KT Bệnh tự kỷ 0,92 0,0 >1,0 Chứng nghiện rượu >0,6 Nếp vân da 0,95 0,49 0,92 (số đếm vân ngón tay) Đái đường thể tủy 0,35-0,5 0,05-0,10 0,6- 0,8 (typeI) Đái đường thể tủy 0,7- 0,9 0,25-0,4 0,9- 1,0 (typeII) Động kinh 0,69 0,14 >1,0 Chiều cao 0,94 0,44 1,0 Bệnh sởi 0,95 0,87 0,16 Tâm thần phân liệt 0,47 0,12 0,7 Tật nứt gai đốt sống 0,72 0,33 0,78Các cặp sinh đôi cùng trứng thường có điều kiện sống tương tự nhau hơn sovới ở các cặp sinh đôi khác trứng, điều này làm cho các cặp sinh đôi cùngtrứng thường có độ tương hợp cao hơn đối với một tính trạng nào đó và do đólàm thổi phồng lên thêm ảnh hưởng của các yếu tố di truyền. Để có thể giảiquyết phần nào hạn chế này người ta tiến hành nghiên cứu các cặp sinh đôicùng trứng nhưng lớn lên trong những môi trường khác nhau, khi đó sự tươnghợp giữa các cặp sẽ do các yếu tố di truyền chi phối nhiều hơn so với yếu tốmôi trường. Tuy nhiên trong thực tế cũng khó tìm được nhiều cặp sinh đôinhư vậy.2. Nghiên cứu con nuôi (Adoption Study)Các nghiên cứu về con nuôi cũng được sử dụng để đánh giá đóng góp của cácyếu tố di truyền trong các trường hợp di truyền đa yếu tố. Các trẻ con của cácbố mẹ do mắc bệnh nên được những bố mẹ không mắc bệnh nhận làm connuôi sẽ được nghiên cứu để xem chúng có phát triển bệnh hay không. Trongmột vài trường hợp những trẻ này có xu hướng mắc bệnh nhiều hơn nhómchứng (nhóm các trẻ sinh bởi các bố mẹ không mắc bệnh được cho làm connuôi). Điều này cung cấp một số bằng chứng cho thấy vai trò của gene trongnguyên nhân gây bệnh mặc dù chúng không chia xẻ chung môi trường sốngvới bố mẹ ruột mắc bệnh. Khoảng 8% đến 10% trẻ, con của các bố hoặc mẹbị tâm thần phần liệt được cho làm con nuôi phát triển bệnh trong khi đó chỉcó 1% trẻ con của các bố mẹ không mắc bệnh được cho làm con nuôi bị mắcbệnh này.Khi phiên giải kết quả nghiên cứu con nuôi cũng cần phải thận trọng vớinhững vấn đề sau: (1) Ảnh hưởng của môi trường ở giai đoạn trước sinh cũng có thể có hậu quả lâu dài lên trẻ con nuôi. (2) Đôi khi trẻ được nhận làm con nuôi sau khi đã nhiều tuổi, như vậy có nghĩa là trẻ cũng đã chịu một số ảnh hưởng nhất định của các yếu tố môi trường giống như bố mẹ ruột. (3) Đôi khi các trung tâm chịu trách nhiệm cho việc nhận con nuôi thường tìm các cặp bố mẹ nuôi có các điều kiện gần giống với bố mẹ ruột của trẻ.Tất cả những vấn đề trên đều có thể làm phóng đại ảnh hưởng của sự ditruyền lên tính trạng hoặc bệnh.Tuy nhiên cả hai phương pháp nghiên cứu trên đều không cung cấp nhữngbiện pháp hữu hiệu để đánh giá, đo lường vai trò của các gene trong các bệnhdi truyền đa yếu tố cũng như không giúp xác định các gene đặc hiệu gâybệnh. Thay vào đó chúng chỉ giúp nhận định vai trò của các yếu tố di truyềnđối với một bệnh di truyền đa yếu tố. ...

Tài liệu được xem nhiều: