![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Vai trò của phương pháp chẩn đoán hình ảnh xâm nhập trong quyết định can thiệp các tổn thương động mạch vành không thủ phạm ở bệnh nhân hội chứng động mạch vành cấp
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 230.48 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết Vai trò của phương pháp chẩn đoán hình ảnh xâm nhập trong quyết định can thiệp các tổn thương động mạch vành không thủ phạm ở bệnh nhân hội chứng động mạch vành cấp trình bày vai trò của các phương pháp đánh giá chức năng xâm nhập; So sánh phân số dự trữ vành FFR và tỷ số sóng tự do tức thời iFR trong bệnh nhân ACS; Vai trò của phương pháp chẩn đoán hình ảnh trong lòng động mạch vành.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của phương pháp chẩn đoán hình ảnh xâm nhập trong quyết định can thiệp các tổn thương động mạch vành không thủ phạm ở bệnh nhân hội chứng động mạch vành cấp CHUYÊN ĐỀVai trò của phương pháp chẩn đoán hình ảnhxâm nhập trong quyết định can thiệp các tổn thươngđộng mạch vành không thủ phạm ở bệnh nhânhội chứng động mạch vành cấp Nguyễn Phương Anh, Phạm Mạnh Hùng Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai Khoảng 50% bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu cơ tim ST chênh lên có bệnh lý đa mạch trên chụp mạch vành. Các bằng chứng gần đây cho thấy chiến lược can thiệp mạch vành qua da (PCI) từng bước cho các tổn thương không phải thủ phạm nhằm tái thông mạch hoàn toàn, làm giảm đáng kể tỷ lệ biến cố tim mạch tái phát so với chiến lược chỉ can thiệp tổn thương thủ phạm. Thử nghiệm COMPLETE đã chứng minh rằng chiến lược can thiệp mạch vành qua da (PCI) theo giai đoạn với các tổn thương không phải thủ phạm làm giảm 26% nguy cơ tử vong do bệnh tim và nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) sau theo dõi 3 năm, so với chiến lược PCI chỉ ở động mạch thủ phạm. Mặc dù chức năng của các tổn thương hẹp vừa được đánh giá kỹ càng bằng phân số dự trữ vành (FFR) hoặc tỷ số sóng tự do tức thời (iFR) để phát hiện tổn thương gây thiếu máu, độ tin cậy của nghiên cứu về các tổn thương không phải thủ phạm trong giai đoạn cấp tính của hội chứng vành cấp cũng vẫn gây tranh cãi. Mặt khác, có hiện tượng gia tăng một số các biến cố mới ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp tính mà PCI bị trì hoãn khi đo FFR/iFR không có biểu hiện thiếu máu, điều này được giải thích là do đánh giá chức năng không đầy đủ và nguy cơ nội tại cao hơn, liên quan với sự hiện diện của các mảng xơ vữa không ổn định. Trong hoàn cảnh này, các phương pháp chẩn đoán hình ảnh trong lòng mạch động vành cho thấy sự hiện diện của các mảng xơ vữa không ổn định ở các tổn thương không thủ phạm có liên quan đến việc tăng tỷ lệ biến cố tim mạch.Vai trò của các phương pháp đánh giá chức năng Tuy nhiên, cho đến nay, độ tin cậy của việc đánh giáxâm nhập chức năng trong giai đoạn cấp tính của ACS vẫn cònSinh lý bệnh trong sử dụng phân số dự trữ vành đang tranh cãi.FFR và tỷ số sóng tự do tức thời iFR ở bệnh nhân Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên gần đâyhội chứng mạch vành cấp đã chỉ ra rằng việc sử dụng FFR để hướng dẫn các Nhiều bằng chứng ủng hộ việc sử dụng đánh giá quyết định liên quan đến PCI với các tổn thươngtình trạng thiếu máu cơ tim một cách sinh lý bằng không phải là thủ phạm trong STEMI cấp tính làdự trữ dòng chức năng, bằng phương pháp đo phân an toàn và hiệu quả. Đặc biệt, COMPARE-ACUTEsố dự trữ vành (FFR) hoặc tỷ số sóng tự do tức thời và DANAMI3-PRIMULTI đã chỉ ra rằng tái thông(iFR) để hướng dẫn tái thông mạch máu, đặc biệt mạch toàn bộ bằng PCI dưới sự hướng dẫn của FFRở những bệnh nhân có bệnh mạch vành ổn định. làm giảm tỷ lệ tái phát thiếu máu cục bộ với thời TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 97.2021 5 CHUYÊN ĐỀgian theo dõi trung bình là 12 và 27 tháng, so sánh adenosine. Ngoài ra, khi so sánh với FFR, iFR cóvới PCI chỉ ở tổn thương thủ phạm. Cụ thể, sự khác mối tương quan mạnh hơn với CFR, cho thấy iFRbiệt này giữa hai nhóm là do tỷ lệ tái thông mạch đáng tin cậy hơn trong các trường hợp bất tươngcấp là ít hơn, trong khi tử vong do tim và tái phát xứng giữa FFR và CFR, là tình huống có thể xảy raNMCT cấp tương đương giữa hai nhóm. trong ACS. Tuy nhiên, một số vấn đề cần quan tâm với FFR. So sánh phân số dự trữ vành FFR và tỷ số sóng tựĐiều kiện tiên quyết cho một phép đo FFR đáng tin do tức thời iFR trong bệnh nhân ACScậy là đạt được tình trạng tăng tưới máu tối đa do Một nghiên cứu nhỏ của Ntalianis đã báo cáosự giãn nở của vi tuần hoàn sau khi tiêm adenosine. đánh giá về tổn thương không phải thủ phạm vớiTuy nhiên, bệnh nhân ACS có thể có đáp ứng FFR ở 101 bệnh nhân được chẩn đoán NMCTkhông hoàn toàn với adenosine, do hậu quả của cả cấp, thực hiện tại thời điểm PCI của tổn thươngviệc tăng kháng trở vi mạch và giảm dự trữ lưu lượng thủ phạm và lặp lại sau 35 ± 4 ngày. Trong mộtmạch vành (CFR). Do đó, giá trị FFR bình thường nghiên cứu khác, với 120 bệnh nhân STEMI kèm(>0,80) có thể âm tính giả do không đạt được mức tổn thương nhiều mạch vành, iFR được đo trên tổngiãn mạch vành tối đa. thương không phải thủ phạm trong giai đoạn cấp Trên thực tế, có hiện tượng gia tăng giải phóng tính và sau đó 16 ngày cho thấy sự gia tăng đángcác phân tử co mạch xảy ra trong ACS và nghiên kể iFR (0,89–0,91), đặc biệt rõ ràng ở những bệnhcứu đã chứng minh rằng adenosine không thể loại nhân có thời gian dài hơn trước lần đo iFR thứ hai.bỏ sự co mạch vành qua trung gian α-adrenergic và Cuối cùng, Van der Hoeven đã đánh giá iFR,endothelin hoặc các chất co mạch tác dụng mạnh FFR, CFR và IMR trong các tổn thương khôngnhư angiotensin, thromboxan A2 và serotonin. Hơn thủ phạm của 73 bệnh nhân STEMI cấp và sau 1nữa, tổn thương không phải là thủ phạm có thể liên tháng theo dõi. Các tác giả đã chứng minh sự tăngquan đến vỡ mảng bám và tắc mạch xa, cản trở phản dần iFR ở các lần theo dõi, trong khi FFR giảmứng giãn mạch của vi tuần hoàn. Rối loạn chức năng đáng kể (0,88–0,86; P = 0,001). CFR tăng khi theonội mô mạch vành có thể tồn tại trước biến c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của phương pháp chẩn đoán hình ảnh xâm nhập trong quyết định can thiệp các tổn thương động mạch vành không thủ phạm ở bệnh nhân hội chứng động mạch vành cấp CHUYÊN ĐỀVai trò của phương pháp chẩn đoán hình ảnhxâm nhập trong quyết định can thiệp các tổn thươngđộng mạch vành không thủ phạm ở bệnh nhânhội chứng động mạch vành cấp Nguyễn Phương Anh, Phạm Mạnh Hùng Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai Khoảng 50% bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu cơ tim ST chênh lên có bệnh lý đa mạch trên chụp mạch vành. Các bằng chứng gần đây cho thấy chiến lược can thiệp mạch vành qua da (PCI) từng bước cho các tổn thương không phải thủ phạm nhằm tái thông mạch hoàn toàn, làm giảm đáng kể tỷ lệ biến cố tim mạch tái phát so với chiến lược chỉ can thiệp tổn thương thủ phạm. Thử nghiệm COMPLETE đã chứng minh rằng chiến lược can thiệp mạch vành qua da (PCI) theo giai đoạn với các tổn thương không phải thủ phạm làm giảm 26% nguy cơ tử vong do bệnh tim và nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) sau theo dõi 3 năm, so với chiến lược PCI chỉ ở động mạch thủ phạm. Mặc dù chức năng của các tổn thương hẹp vừa được đánh giá kỹ càng bằng phân số dự trữ vành (FFR) hoặc tỷ số sóng tự do tức thời (iFR) để phát hiện tổn thương gây thiếu máu, độ tin cậy của nghiên cứu về các tổn thương không phải thủ phạm trong giai đoạn cấp tính của hội chứng vành cấp cũng vẫn gây tranh cãi. Mặt khác, có hiện tượng gia tăng một số các biến cố mới ở bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp tính mà PCI bị trì hoãn khi đo FFR/iFR không có biểu hiện thiếu máu, điều này được giải thích là do đánh giá chức năng không đầy đủ và nguy cơ nội tại cao hơn, liên quan với sự hiện diện của các mảng xơ vữa không ổn định. Trong hoàn cảnh này, các phương pháp chẩn đoán hình ảnh trong lòng mạch động vành cho thấy sự hiện diện của các mảng xơ vữa không ổn định ở các tổn thương không thủ phạm có liên quan đến việc tăng tỷ lệ biến cố tim mạch.Vai trò của các phương pháp đánh giá chức năng Tuy nhiên, cho đến nay, độ tin cậy của việc đánh giáxâm nhập chức năng trong giai đoạn cấp tính của ACS vẫn cònSinh lý bệnh trong sử dụng phân số dự trữ vành đang tranh cãi.FFR và tỷ số sóng tự do tức thời iFR ở bệnh nhân Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên gần đâyhội chứng mạch vành cấp đã chỉ ra rằng việc sử dụng FFR để hướng dẫn các Nhiều bằng chứng ủng hộ việc sử dụng đánh giá quyết định liên quan đến PCI với các tổn thươngtình trạng thiếu máu cơ tim một cách sinh lý bằng không phải là thủ phạm trong STEMI cấp tính làdự trữ dòng chức năng, bằng phương pháp đo phân an toàn và hiệu quả. Đặc biệt, COMPARE-ACUTEsố dự trữ vành (FFR) hoặc tỷ số sóng tự do tức thời và DANAMI3-PRIMULTI đã chỉ ra rằng tái thông(iFR) để hướng dẫn tái thông mạch máu, đặc biệt mạch toàn bộ bằng PCI dưới sự hướng dẫn của FFRở những bệnh nhân có bệnh mạch vành ổn định. làm giảm tỷ lệ tái phát thiếu máu cục bộ với thời TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 97.2021 5 CHUYÊN ĐỀgian theo dõi trung bình là 12 và 27 tháng, so sánh adenosine. Ngoài ra, khi so sánh với FFR, iFR cóvới PCI chỉ ở tổn thương thủ phạm. Cụ thể, sự khác mối tương quan mạnh hơn với CFR, cho thấy iFRbiệt này giữa hai nhóm là do tỷ lệ tái thông mạch đáng tin cậy hơn trong các trường hợp bất tươngcấp là ít hơn, trong khi tử vong do tim và tái phát xứng giữa FFR và CFR, là tình huống có thể xảy raNMCT cấp tương đương giữa hai nhóm. trong ACS. Tuy nhiên, một số vấn đề cần quan tâm với FFR. So sánh phân số dự trữ vành FFR và tỷ số sóng tựĐiều kiện tiên quyết cho một phép đo FFR đáng tin do tức thời iFR trong bệnh nhân ACScậy là đạt được tình trạng tăng tưới máu tối đa do Một nghiên cứu nhỏ của Ntalianis đã báo cáosự giãn nở của vi tuần hoàn sau khi tiêm adenosine. đánh giá về tổn thương không phải thủ phạm vớiTuy nhiên, bệnh nhân ACS có thể có đáp ứng FFR ở 101 bệnh nhân được chẩn đoán NMCTkhông hoàn toàn với adenosine, do hậu quả của cả cấp, thực hiện tại thời điểm PCI của tổn thươngviệc tăng kháng trở vi mạch và giảm dự trữ lưu lượng thủ phạm và lặp lại sau 35 ± 4 ngày. Trong mộtmạch vành (CFR). Do đó, giá trị FFR bình thường nghiên cứu khác, với 120 bệnh nhân STEMI kèm(>0,80) có thể âm tính giả do không đạt được mức tổn thương nhiều mạch vành, iFR được đo trên tổngiãn mạch vành tối đa. thương không phải thủ phạm trong giai đoạn cấp Trên thực tế, có hiện tượng gia tăng giải phóng tính và sau đó 16 ngày cho thấy sự gia tăng đángcác phân tử co mạch xảy ra trong ACS và nghiên kể iFR (0,89–0,91), đặc biệt rõ ràng ở những bệnhcứu đã chứng minh rằng adenosine không thể loại nhân có thời gian dài hơn trước lần đo iFR thứ hai.bỏ sự co mạch vành qua trung gian α-adrenergic và Cuối cùng, Van der Hoeven đã đánh giá iFR,endothelin hoặc các chất co mạch tác dụng mạnh FFR, CFR và IMR trong các tổn thương khôngnhư angiotensin, thromboxan A2 và serotonin. Hơn thủ phạm của 73 bệnh nhân STEMI cấp và sau 1nữa, tổn thương không phải là thủ phạm có thể liên tháng theo dõi. Các tác giả đã chứng minh sự tăngquan đến vỡ mảng bám và tắc mạch xa, cản trở phản dần iFR ở các lần theo dõi, trong khi FFR giảmứng giãn mạch của vi tuần hoàn. Rối loạn chức năng đáng kể (0,88–0,86; P = 0,001). CFR tăng khi theonội mô mạch vành có thể tồn tại trước biến c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tim mạch học Tổn thương động mạch vành Hội chứng động mạch vành cấp Nhiễm đại thực bào Xơ vữa động mạch đa ổTài liệu liên quan:
-
5 trang 173 0 0
-
Nghiên cứu tỷ lệ ngã và nguy cơ ngã ở bệnh nhân cao tuổi có tăng huyết áp
7 trang 51 0 0 -
Nguy cơ thai sản ở bệnh nhân tim bẩm sinh có tăng áp động mạch phổi
5 trang 37 0 0 -
7 trang 33 1 0
-
6 trang 33 0 0
-
7 trang 30 0 0
-
11 trang 30 0 0
-
126 trang 30 0 0
-
6 trang 29 0 0
-
Các bộ câu hỏi đánh giá tuân thủ điều trị ở bệnh nhân tim mạch
6 trang 28 0 0