Thông tin tài liệu:
Vai trò của hormone LH trong một chu kỳ phát triển nang noãn tự nhiên đã khẳng định. Đối với chu kỳ thực hiện IVF/ICSI, kích thích nang noãn thường được thực hiện với FSH tái tổ hợp và GnRH analogue nhằm ức chế sự xuất hiện đỉnh LH sớm. Có rất nhiều ý kiến liên quan đến việc sử dụng GnRH analogue có ảnh hưởng như thế nào đến mức LH nội sinh, vốn cũng có vai trò trong sự phát triển nang noãn. Một số phác đồ kích thích buồng trứng đã phối hợp bổ sung LH...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò LH trong kích thích buồng trứng-TTON Vai trò LH trong kích thích buồng trứng-TTONGiới thiệuVai trò của hormone LH trong một chu kỳ phát triển nang noãn tự nhiên đã khẳngđịnh. Đối với chu kỳ thực hiện IVF/ICSI, kích thích nang noãn thường được thựchiện với FSH tái tổ hợp và GnRH analogue nhằm ức chế sự xuất hiện đỉnh LHsớm. Có rất nhiều ý kiến liên quan đến việc sử dụng GnRH analogue có ảnhhưởng như thế nào đến mức LH nội sinh, vốn cũng có vai tr ò trong sự phát triểnnang noãn. Một số phác đồ kích thích buồng trứng đã phối hợp bổ sung LH ởnhững thời điểm khác nhau trong pha nang no ãn. Tuy nhiên hiệu quả của việc phốihợp này hiện nay vẫn chưa thống nhất rõ.Sinh lý hoạt động FSH và LHNang noãn phát triển cần cả 2 hormone hướng sinh dục FSH và LH. Theo giảthuyết 2 tế bào- 2 hormone sinh dục-two cell- two gonadotrophin, FSH chịutrách nhiệm cho sự phát triển, tăng sinh của tế bào hạt, phát triển nang noãn vàhoạt động thơm hóa. Trái lại, LH chịu trách nhiệm cho sự phát triển của tế bào vỏvà tổng hợp androgen (dehydroepiandrosterone, androstenedione, và testosterone)từ cholesterol và pregnenolone nhờ hoạt động kích thích của 17 α-hydroxylase.Androgen được tổng hợp từ tế bào vỏ này sẽ là tiền chất cho quá trình tổng hợpestrogen của tế bào hạt. Hai hormone này là động lực chính cho sự phát triển nangnoãn. Ngoài ra, LH cũng cần cho sự sản xuất progesterone sau phóng noãn để duytrì nội mạc.Hormone LH được tổng hợp bởi các tế bào sinh dục ở thùy trước tuyến yên. Sựtiết LH bình thường phụ thuộc vào nhịp điệu chế tiết sinh học của GnRH, đượccân bằng bởi cơ chế feedback âm và dương. Nồng độ estrogen cao sẽ tạo feedbackdương lên LH, và ở pha hoàng thể progesterone sẽ tạo feedback âm lên sự chế tiếtLH. Như vậy, nếu nồng độ LH dưới mức tối thiểu cần thiết, thì nồng độ estrogentổng hợp sẽ không đầy đủ cho sự phát triển của nội mạc và hình thành hoàng thể.Vấn đề đặt raCần bổ sung LH?LH nội sinh có đủ để duy trì phát triển đa noãn?Tất cả mọi đối tượng đều cần bổ sung LH, hay chỉ 1 nhóm riêng?Nhóm bệnh nhân hypogonadotropic hypogonadismTác giả Shoham công bố nghiên cứu đầu tiên về vai trò của FSH và LH ở bệnhnhân hypogonadotropic hypogonadism vào năm 1993 (1), nh ận thấy rằng r-hFSHđủ cho sự phát triển của nang noãn nhưng không thể kích thích tổng hợp estrogen.Điều này có thể do nồng độ LH nội sinh trong tuần hoàn của những bệnh nhân nàylà rất thấp (Hình 1).Chứng tỏ rằng hormone LH là bắt buộc cho sự tổng hợp estrogen. Thế nhưngngưỡng cần thiết LH tối thiểu là bao nhiêu để đạt được sự tổng hợp E2 đầy đủ khikích thích buồng trứng. Một nghiên cứu đa trung tâm ở Châu Âu đã thực hiệnnghiên cứu trên các bệnh nhân hypogonadotropic hypogonadism sử dụng 150 IUr-hFSH kết hợp với lần lượt giả dược, 25, 75, 225 IU r-hLH (2). Nghiên cứu chothấy có mối liên quan rõ ràng giữa liều r-hLH và nồng độ E2 trong pha nang noãn.Nồng độ E2 ở các nhóm bệnh nhân trên lần lượt là 65±40, 195±94, 1392±585,2441±904 pmol/L. Sự phát triển của nội mạc cũng có mối liên hệ dương theonhóm 75IU r-hLH, và tương đương ở 2 nhóm sử dụng 75IU và 225IU r-hLH, mặcdù nồng độ E2 cao gấp đôi ở nhóm 225IU r -hLH. Đa số các bệnh nhân (79%)nhận 75 và 225IU r-hLH có nang noãn phát triển, đồng thời số nang cũng nhiềuhơn so với các nhóm còn lại chỉ đạt 27%. Nghiên cứu trên cho thấy liều 75IU r-hLH mỗi ngày là đủ cho sự phát triển nang noãn bình thường ở những bệnh nhânhypogonadotropic hypogonadism.Nhóm bệnh nhân có phóng noãn hay không phóng noãn theo phân loại II củaWHO (sử dụng GnRH analogue)Chọn lựa phác đồ tốt nhất đối với những bệnh nhân sử dụng GnRH đồng vận đ ãđược tranh cãi rất nhiều từ những đầu thập niên 90. Với việc sử dụng GnRH đồngvận rất hiệu quả nhằm ngăn ngừa đỉnh LH sớm, hỗ trợ pha ho àng thể là cần thiếttrong các chu kỳ sử dụng GnRH đồng vận này, bởi vì sự sản xuất LH vẫn còn bịức chế ít nhất 10 ngày sau ngưng đồng vận (3). Tuy nhiên, sự chiêu tập nang noãndường như không ảnh hưởng, nang noãn có thể đạt đến sự phát triển đầy đủ cho dùsử dụng FSH tinh khiết thiếu LH như FSH tái tổ hợp (4). Do đó, vai trò của LHnội sinh trong quá trình kích thích nang noãn thu hút sự quan tâm nhiều từ nhữngnăm đầu IVF.Cho đến thời điểm hiện tại, chứng cứ y khoa cho thấy rằng ở những phụ nữ cóphóng noãn hay không phón g noãn theo phân loại II của WHO, mức LH nội sinhthấp trong kích thích buồng trứng IVF sử dụng GnRH đồng vận không làm giảm tỉlệ thai diễn tiến (ongoing pregnancy) (5).Do đó, lựa chọn gonadotrophin để kích thích buồng trứng trong IVF nên sử dụngthuốc có chi phí ít tốn kém nhất. Hiện tại chưa có bằng chứng cho thấy sự khácnhau về tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ sanh sống trên một phụ nữ khi so sánh giữahMG và rFSH (OR 1.27; 95% CI 0.98-1.64). Các kết cục thứ phát khác có sự khácnhau chưa rõ ràng, mặc dù tỉ lệ có thai lâm sàng thiên cao hơn về phía hMG (OR1.28; 95%CI 1. ...