Danh mục

Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

Số trang: 3      Loại file: doc      Dung lượng: 35.50 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Không phải mới đây mà trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã có những sự kiện gắn liền với ý tưởng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt NamKhông phải mới đây mà trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã có những sự kiện gắnliền với ý tưởng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1. Ý tưởng duy tân cuối thế kỷ XIX Lịch sử Việt Nam có nhiều cuộc cải cách lớn xuất hiện ở những thờiđiểm khác nhau. Tuy nhiên, xét về ý tưởng và nội dung, phải đến các nhà duy tâncuối thế kỷ XIX mới được coi là sự kiện thể hiện tinh thần công nghiệp hoá.Mục tiêu của các đề án duy tân lúc đó nhằm đuổi kịp trình độ tiên tiến ở cácnước đã thực hiện công nghiệp hoá. Trước hết, nguy cơ xâm lược nước ta khôngphải từ các quốc gia láng giềng phương Bắc, mà là đế quốc phương Tây. Cácnhà duy tân hiểu rằng chỉ có thể chống lại kỹ thuật hiện đại bằng cách phảitrang bị kỹ thuật hiện đại. Nguyện vọng cứu nước, chống Pháp và nguyện vọngduy tân thống nhất là một. Chính xu hướng duy tân đất nước xuất hiện từ năm1861, khi Phan Thanh Giản vào đàm phán với Pháp ở Gia Định, Nguyễn TrườngTộ làm phiên dịch cho Pháp đã viết thư cho Phan Thanh Giản đề nghị phải cấpbách tiến hành duy tân. Mặt khác, quan điểm thức thời ở những người được đi ranước ngoài, chứng kiến tận mắt cảnh tượng “thần kỳ” của thế giới tư bản cũngđịnh hình mục tiêu duy tân đất nước. Những đề nghị duy tân chứa đựng nhiều tinh thần công nghiệp hoá. Ví dụ,Nguyễn Trường Tộ có các đề xuất: Phát triển công nghiệp khoáng sản và ngànhluyện kim; Nhà nước vay tiền của các ngân hàng nước ngoài (như Ngân hàngAnh ở Hương Cảng) để có tiền mở mang kỹ nghệ; Đề cao giáo dục kiến thứcthực dụng, kiến thức hiện đại và học tập khoa học phương Tây; Đ ề nghị nhànước cử người đi du học nước ngoài, nhất là sang Anh hay Pháp, vì đây là nhữngnước tiên tiến nhất. Như vậy, phong trào duy tân cuối thế kỷ XIX chứa trongmình hoài bão lớn. Đúng như nhà sử học Pháp Jean Chesneaux so sánh: Phong tràoduy tân cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam giống trào lưu hình thành ở Trung Quốc saunăm 1895. Định hướng công nghiệp hoá thời kỳ này không thể hiện rõ ở bản thânnhững luận thuyết. Các ý kiến mang ra tranh cãi, như Paul Bernard thuy ết trìnhtại Đại hội Liên hợp thực dân Pháp (tiểu ban Đông Dương) cuối năm 1937, nhanđề “Những vấn đề đặt ra bởi sự phát triển công nghiệp ở Đông Dương”;G.Kherian trong cuốn sách “Có cần công nghiệp hoá Đông Dương hay không?”...chưa thể coi là những công trình nghiên cứu nghiêm túc về công nghiệp hoá. Cóxét hoàn cảnh khách quan lúc đó mới bộc lộ tính chất của vấn đ ề. Sau khủnghoảng 1930 - 1931, do chiều hướng thu hẹp thị trường trong hệ thống tư bảnchủ nghĩa, sự cạnh tranh không ngừng phát triển, mâu thuẫn giữa các nước đ ếquốc với nhau ngày càng sâu sắc. Riêng tư bản tài chính Pháp ở Đông Dương đãvấp phải những khó khăn rất nặng nề về thị trường. Mâu thuẫn giữa các nhómtư bản tài chính Pháp phát triển gay gắt hơn trước. Tình hình đó nẩy sinh xuhướng độc lập, tự lực phát triển của lực lượng kinh tế ở Đông Dương, thậm chícả xu hướng cạnh tranh với các ngành công nghiệp tại chính quốc. Sự kiện công nghiệp hoá Đông Dương đã nhanh chóng đi vào dĩ vãng, bởidù sao Chính phủ Pháp không bao giờ chấp nhận cạnh tranh từ phía các nướcthuộc địa. Kết cục này cho phép rút ra kết luận: Độc lập, tự chủ dân tộc là điềukiện tiên quyết tiến hành công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá sẽ nẩy sinh nhữngmâu thuẫn và chỉ đứng trên lợi ích tuyệt đối của dân tộc, nỗ lực của bản thân dântộc mới giải quyết theo hướng tích cực các mâu thuẫn đó. 3. Công nghiệp hoá trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp So với hai sự kiện trước, sự kiện công nghiệp hoá thứ ba diễn ra gần đây cónhững đường nét rõ rệt và quy mô to lớn hơn. Quá trình đ ược xác đ ịnh là côngnghiệp hoá XHCN xây dựng trên cơ sở hệ thống lý luận phong phú: Mục tiêu, ýnghĩa, thực chất, nội dung cơ bản, những vấn đề cần giải quyết để đảm bảocông nghiệp hoá XHCN,... Công nghiệp hoá XHCN cũng được nỗ lực tiến hànhtrên thực tế qua các kế hoạch 5 năm và hàng năm. Mặc dù vậy, kết quả vẫn là:có đi mà chưa đến. Nhiều người quan niệm thất bại của công nghiệp hoá gắn liền với kếhoạch hoá tập trung - phi thị trường. Thực ra đó chưa phải là cốt lõi. Điểm cốtlõi chính sự lạc hậu so với trình độ thế giới. Một là, mục tiêu công nghiệp hoá XHCN là biến nền sản xuất thủ côngthành nền đại công nghiệp cơ khí, thay lao động năng suất thấp bằng lao độngsử dụng máy móc. Ngay cả khi nhấn mạnh “thực chất của công nghiệp hoáXHCN là tiến hành một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật”, thực chất cũngchưa rõ ràng về mối quan hệ giữa cuộc cách mạnh kỹ thuật hiện tại ở Việt Namvới cuộc cách mạnh KH&CN đang diễn ra trên thế giới. Hai là, quá đề cao yêu cầu cân đối trong nước. Đã có quan niệm cho r ằng,công nghiệp hoá XHCN phải nhằm xây dựng một nền sản xuất lớn có cơ cấukinh tế hợp lý trong đó thể hiện quan hệ qua lại giữa ba ngành kinh tế cơ bản:Công nghiệp nặng, nông nghiệp ...

Tài liệu được xem nhiều: