Bài viết đi vào khảo sát và phân tích ngữ nghĩa của các trợ từ tiếng Việt và so sánh với cách giải thích các trợ từ này trong Từ điển tiếng Việt. Từ đây, khẳng định sự cần thiết và đề xuất bổ sung nét nghĩa đánh giá khi giải thích chúng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vấn đề giải thích nghĩa tình thái của các trợ từ tiếng Việt trong từ điển tiếng Việt (trên cơ sở cuốn từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên)
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2, pp. 94-101
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0015
VẤN ĐỀ GIẢI THÍCH NGHĨA TÌNH THÁI
CỦA CÁC TRỢ TỪ TIẾNG VIỆT TRONG TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT
(TRÊN CƠ SỞ CUỐN TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT DO HOÀNG PHÊ CHỦ BIÊN)
Phạm Thị Thu Giang và Nguyễn Minh Phượng
Khoa Ngoại ngữ, Học viện Kĩ thuật Quân sự
Tóm tắt. Bài báo này đi vào khảo sát và phân tích ngữ nghĩa của các trợ từ tiếng Việt và so
sánh với cách giải thích các trợ từ này trong Từ điển tiếng Việt. Từ đây, khẳng định sự cần
thiết và đề xuất bổ sung nét nghĩa đánh giá khi giải thích chúng. Các trợ từ đến, tới, tận,
những, chỉ, ngay cả,. . . thể hiện cái Tôi chủ quan, những quan điểm thuộc về lập trường
của người nói (về lượng, về mức độ, về chủng loại, về thời gian, tính tích cực/ tiêu cực, sự
bất thường hay nhấn mạnh sự khẳng định sự thật của đối tượng được nói đến trong câu) và
còn có nhiệm vụ đánh dấu tiêu điểm thông báo của câu. Nếu lược bỏ chúng thì nội dung
sự tình được miêu tả trong câu không ảnh hưởng nhưng sắc thái nghĩa đã thay đổi. Vì vậy,
việc bổ sung thêm nét nghĩa tình thái này vào từ điển giải thích là cần thiết.
Từ khóa: Nghĩa tình thái, nghĩa đánh giá, nghĩa phi miêu tả, trợ từ, từ điển tiếng Việt.
1.
Mở đầu
Ngữ pháp chức năng ra đời đã khắc phục những hạn chế của ngữ pháp hình thức trong
việc giải thích bản chất nghĩa và chức năng của các sự kiện ngôn ngữ. Có thể thấy tinh thần của
ngữ pháp chức năng và đường hướng phản ánh vai trò của ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của con người qua các nghiên cứu về tình thái của Jespersen, von Wright, Bally,
Dik,. . . Ở Việt Nam, các công trình của Hoàng Tuệ, Cao Xuân Hạo, Lê Đông, Phạm Hùng Việt,
Nguyễn Văn Hiệp,... đã cho chúng ta có một cách hiểu nhất định về khái niệm phức tạp này. Tuy
nhiên các công trình nghiên cứu mô tả, phân tích các phương tiện biểu thị tình thái cũng chưa thật
sự có nhiều, đặc biệt trong những lĩnh vực có liên quan đến chiều kích nghĩa tình thái trong các
mục từ của từ điển giải thích tiếng Việt. Xem xét các vấn đề nghiên cứu về từ điển học chúng tôi
cũng thấy một hiện trạng như vậy. Cuốn Một số vấn đề từ điển học [10] tập hợp một số bài viết của
các tác giả khác nhau đã cho chúng ta cái nhìn tổng quát về nghiên cứu từ điển học cũng như một
số vấn đề của cuốn Từ điển Tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên). Tuy nhiên, việc giải thích nghĩa
phi miêu tả đang thiếu vắng ở khá nhiều mục từ thì cũng chưa được quan tâm đúng mức với tầm
quan trọng của chúng. Vì vậy, mục tiêu chính của bài báo là bổ sung và hoàn chỉnh cách hiểu về
nghĩa của các trợ từ, nhất là về nghĩa phi miêu tả mà cụ thể là nghĩa đánh giá. Từ đó, đề xuất cách
giải thích chúng và khẳng định tính cần thiết phải có nét nghĩa đánh giá này trong các mục từ của
Từ điển tiếng Việt.
Ngày nhận bài: 15/10/2015. Ngày nhận đăng: 10/3/2016
Liên hệ: Phạm Thị Thu Giang, e-mail: thugiang_6684@yahoo.com
94
Vấn đề giải thích nghĩa tình thái của các trợ từ tiếng Việt trong Từ điển tiếng Việt...
2.
2.1.
Nội dung nghiên cứu
Tình thái: khái niệm, ý nghĩa và các phương tiện biểu hiện nghĩa
Tình thái cũng là khái niệm phức tạp của ngôn ngữ học với rất nhiều định nghĩa, cách hiểu
khác nhau. Hiểu theo nghĩa hẹp, tình thái chỉ xoay quanh các tham số về tính tất yếu, tính khả năng
và tính hiện thực, trên cơ sở nhận thức hay đạo nghĩa, và tất cả được hiểu theo góc độ khách quan
(tình thái trong logic) hay chủ quan (tình thái trong ngôn ngữ) [4;91]. Hiểu theo nghĩa rộng, khái
niệm tình thái sẽ bao hàm nhiều ý nghĩa khác nhau như các ý nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn
của người nói; các ý nghĩa khác nhau thể hiện sự đánh giá, thái độ, lập trường hay cảm xúc của
người nói đối với nội dung thông báo; ý nghĩa thuộc đối lập giữa khẳng định và phủ định đối với
sự tồn tại của sự tình; những đặc trưng liên quan đến sự diễn tiến của sự tình, liên quan đến khung
vị từ và mối quan hệ giữa chủ thể được nói đến trong câu và vị từ (thời, thể hay các ý nghĩa được
thể hiện bằng vị từ tình thái); các ý nghĩa phản ánh các đặc trưng khác của phát ngôn và hành động
phát ngôn với ngữ cảnh, theo quan điểm, đánh giá của người nói. Cách hiểu tình thái theo nghĩa
rộng nhất như vậy được Bybee diễn đạt là “tất cả những gì mà người nói thực hiện cùng với toàn
bộ nội dung mệnh đề” [dẫn theo 3;22]. Nói cách khác, phạm trù tình thái bao gồm tất cả những
phương diện nội dung gắn với thực tại câu, biến các nội dung mệnh đề ở thế tiềm năng trở thành
các phát ngôn trong giao tiếp.
Trong giới nghiên cứu Việt ngữ học, chủ trương quan niệm như thế có các tác giả Đỗ Hữu
Châu, Hoàng Tuệ, Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp. . . ; đặc biệt là Cao Xuân Hạo.
Cũng phong phú như các kiểu ý nghĩa của tình thái, có nhiều phương tiện để biểu thị nội
dung ý nghĩa của phạm trù này như phương tiện ngữ âm, ...