Danh mục

Vấn đề giới trong giáo dục đại học

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 133.30 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục đích - Học xong bài học này, bạn sẽ có khả năng: - Phân biệt được sự khác nhau giữa giới và giới tính; - Liệt kê được các biểu hiện của sự không công bằng về giới trong giáo dục đại học; miêu tả được các yếu tố dẫn đến sự bất bình đẳng giới trong giáo dục đại học; và - Nói lên những thực tế tiêu cực của những sinh viên nữ trong các trường đại học điều đã cản trở sự tham gia của họ Khái niệm về giới Giới đã trở thành một từ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vấn đề giới trong giáo dục đại học Vấn đề giới trong giáo dục đại họcMục đích - Học xong bài học này, bạn sẽ có khả năng: - Phân biệt được sự khác nhau giữa giới và giới tính; - Liệt kê được các biểu hiện của sự không công bằng về giới trong giáo dục đại học; miêu tả được các yếu tố dẫn đến sự bất bình đẳng giới trong giáo dục đại học; và - Nói lên những thực tế tiêu cực của những sinh viên nữ trong các trường đại học điều đã cản trở sự tham gia của họKhái niệm về giới Giới đã trở thành một từ rất quan trọng trong các cuộc thảoluận về sự phát triển. Khi giáo dục là một phần chính của vấnđề phát triển, điều quan trọng là làm sao để tất cả những ngườilàm công tác giáo dục đều quen với nghĩa của từ “giới”. Có lẽchúng ta sẽ bắt đầu bằng những nghĩa không đúng của từ giới.Giới không đồng nghĩa với phụ nữ. Giới không đồng nghĩa vớigiới tính, thậm chí khi đặt nó trái ngược với giới tính thì sẽ hiểuđúng hơn nghĩa của nó. Giới tính là nói đến các thuộc tính hoặccác chức năng sinh vật học của con đực và con cái. Đối với phụnữ, đặc trưng sinh học là buồng trứng, có vú phát triển đầy đủ,có thai và sinh con, nuôi con bằng vú, v.v. Giới tính là một hiện tượng sinh vật học mà một cá thể cóngay sau khi thụ tinh (do các nhiễm sắc thể X và Y kết hợp), tứclà trước khi sinh ra. Kết quả là các đặc tính đực/cái có thể quansát được và nó không hề thay đổi. Giới là hiện tượng cấu trúcxã hội xảy ra do xã hội gán cho hai giới tính các vai trò vànhiệm vụ, cách cư xử và phong cách khác nhau. Không giốngnhư giới tính, giới là một đặc trưng mang tính tri giác, bởi thếdễ thay đổi khi nó ảnh hưởng đến cách thức mà mọi ngườihành động và cư xử với nhau. Đặc điểm sinh vật học của mỗi giới tính xác định các đặctrưng giới tính và các chức năng của các thuộc tính này. Trongkhi đó, giới nói đến những người mà đặc điểm và chức năng củahọ là do xã hội gán buộc hoặc phân công cho đàn ông hay đànbà. Ví dụ, xã hội mong muốn đàn ông xốc vác, độc lập, có lýtrí, quyết đoán chứ không mong muốn đàn bà như vậy. Thayvào đó, đàn bà được mong muốn dịu dàng, dễ phục tùng, phụthuộc, bị động, dễ xúc cảm, v.v. Khi một đứa trẻ lớn lên, nóphải hoà nhập để đáp ứng những mong chờ như thế của xã hội.Điều đó nói lên rằng, các cách đối xử nói trên được học và tiếpthu trong khi có cảm tưởng sai lầm rằng chúng được ấn địnhtheo quy luật sinh vật học. Davies (1999) phát biểu như sau: Giới là một cấu trúc xã hội được xác định mang tính vănhoá. Nó dựa trên cơ sở tín ngưỡng và truyền thống của một xãhội nhất định và liên quan đến vai trò, cách ứng xử và nhữngđặc tính mà xã hội gán buộc cho mỗi giới tính. Đó là cách đểchúng ta xác định đàn ông hay đàn bà. Tuy nhiên, những điềungười ta phân biệt nhằm xác định địa vị của giới tính: đàn ôngthì cao cấp còn đàn bà thì thấp kém. Giới được biết nhằm phát huy sự nỗ lực của mỗi người dẫnđến việc phân loại về vai trò, các hoạt động, trách nhiệm, nghềnghiệp nào là phù hợp cho nữ và cho nam. Thật vậy, điều nàydẫn đến cái gọi là đặc trưng về giới. Đặc trưng về giới đượcđịnh nghĩa là sự góp nhặt một cách tầm thường các niềm tinhay các quan điểm về đối xử và các hoạt động được xã hội cholà phù hợp với đàn ông hoặc với đàn bà. Njabili (1999) chorằng có bốn nguyên nhân về đặc trưng giới là: văn hoá-xã hội;kinh tế; giáo dục và đào tạo; và môi trường. Nguyên nhân vănhoá-xã hội bắt nguồn từ niềm tin cảm giác cho rằng chỗ củamột cô gái là ở trong bếp (cùng với mẹ của em), trong khi cậucon trai phải làm việc ngoài đồng (cùng với người cha). Nguyênnhân kinh tế thì cho rằng đàn ông là những người trụ cột kinhtế trong gia đình. Vì thế, trong hệ thống lao động di trú ở mộtsố nước, ví dụ như Lesotho, Botswana, Namibia, có nhiều phụnữ ở lại trong nước hơn bởi lẽ đàn ông đã đi làm việc tại cáchầm mỏ ở Nam Phi. Xu thế này ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Một số nghề nhất định, chẳng hạn nghề cơ khí, được xemlà không phù hợp với phụ nữ trong khi các nghề cung ứng thựcphẩm hay thư kí lại được coi là không phù hợp với nam giới.Trong thực tế, giới là yếu tố quyết định đối với sự tham giavào hệ thống giáo dục chính thống như một đặc ân của namgiới. Khoảng cách trong việc tham gia và thành đạt ở tất cả cácbậc học là khá lớn do những trông mong vào vai trò của giới vàdo sự rập khuôn về giới. Bởi vậy bất kỳ nỗ lực nào nhằm đẩymạnh sự tham gia của phụ nữ vào giáo dục đều phải nhận thứcrõ ảnh hưởng của giới đến hoạt động giảng dạy và học tậpcũng như đến các chính sách.Bài tập Hãy chuẩn bị một bảng liệt kê những đặc điểm và tính chấtcó thể được liệt vào loại “giới tính” và một bảng khác cho kháiniệm “giới”. Hãy thảo luận bảng này với đồng nghiệp của bạnvà cho biết các bạn đồng ý với những thuộc tính nào trong số đó.Sự bất bình đẳng về giới trong giáo dục đại học Có nhiều biểu hiện khác nhau về sự bất bình đẳng về giớitrong giáo dục đại học - vốn được coi như một đặc ân của namgiới. ...

Tài liệu được xem nhiều: