Danh mục

Văn hóa biển miền Đông Nam Bộ - Nhìn từ lễ hội dân gian của ngư dân

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 256.35 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Văn hóa biển miền Đông Nam Bộ - Nhìn từ lễ hội dân gian của ngư dân trình bày về không gian địa lý, lịch sử - văn hóa miền Đông Nam Bộ từ trước tới nay; theo thống kê bước đầu, vùng duyên hải miền Đông Nam Bộ có hàng chục lễ hội dân gian, chúng tôi tạm chia thành ba loại; lễ hội dân gian là một nhu cầu tâm linh, thể hiện sự gắn bó, cố kết cộng đồng của ngư dân. Nói cách khác lễ hội dân gian giữ vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống của ngư dân miền Đông Nam Bộ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Văn hóa biển miền Đông Nam Bộ - Nhìn từ lễ hội dân gian của ngư dân VĂN HÓA BIỂN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ- NHÌN TỪ LỄ HỘI DÂN GIAN CỦA NGƯ DÂN Ðinh văn Hạnh 1/. Không gian địa lý, lịch sử-văn hóa miền Đông Nam Bộ từ trước tới nay được xác định bao gồm các tỉnh, thành: Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu. Nếu lấy dòng chảy làm tiêu chí thì miền Đông Nam Bộ nằm tả ngạn hạ lưu sông Mê Kông. Trong phạm vi giới hạn của vấn đề đang nghiên cứu, chỉ có Bà Rịa-Vũng Tàu và huyện Cần Giờ của thành phố Hồ Chí Minh là tiếp giáp với biển. Vì vậy, khi xác định văn hóa biển miền Đông Nam Bộ, chúng tôi chọn vùng duyên hải huyện Cần Giờ và đặc biệt là địa bàn Bà Rịa-Vũng Tàu làm đối tượng khảo sát và nghiên cứu. Về vị trí địa lý, miền Đông Nam Bộ nằm trên các trục giao thông thủy bộ nối liền với các vùng miền, là vùng đất của những cửa con sông lớn đổ ra biển sau khi chảy qua miền đồng bằng rộng lớn, trù phú và có nền văn hóa lâu đời. Về dân số, năm 2002, huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh có 62.105 người. Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có 862.081 người, trong đó số người làm việc trong ngành đánh bắt thủy hải sản là 38.526 người, chiếm 4,4% dân số và 10,3% số lao động đang làm việc trong các ngành nghề kinh tế trên địa bàn. Tổng sản phẩm xã hội (GDP) năm 2002 là 49.723,618 tỷ đồng, trong đó giá trị sản xuất của ngành đánh bắt thủy hải sản đạt 1.415,2 tỷ đồng, chiếm 2,8%. Điểm qua những con số này để thấy vị trí của ngư dân và ngành thủy sản duyên hải miền Đông Nam Bộ, mặc dù đây là vùng đất có tốc độ phát triển kinh tế rất cao mà chủ yếu nhờ vào sự phát triển của công nghiệp và hoạt động dịch vụ du lịch. Quá trình lịch sử của miền Đông Nam Bộ mà đặc biệt là vùng duyên hải có nhiều nét đáng lưu ý. Đây là cửa ngõ và là nơi dừng chân đầu tiên trong quá trình người Việt mở đất mở nước xuống phương Nam. Từ cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ 17, cư dân từ miền Trung đã đến vùng đất mới-duyên hải miền Đông Nam Bộ, cùng sinh sống với đồng bào các dân tộc bản địa. Nhiều thôn ấp ven biển của người Việt đã hình thành, phát triển với nghề đánh bắt hải sản. 1You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com) Nhiều thế kỷ sau đó, duyên hải miền Đông Nam Bộ tiếp tục là địa bàn dừng chân của nhiều lớp cư dân từ miền Trung (vùng Ngũ Quảng, Bình-Phú), từ miền Bắc (năm 1954, sau năm 1975) và cả người Hoa từ duyên hải Nam Trung Hoa đến cư trú, sinh sống. Và, không ít những thế hệ, những cộng đồng di dân đã đến, lưu lại một thời gian ở miền Đông Nam Bộ rồi lại ra đi tiếp tục cuộc hành trình về phương Nam. Nếu so sánh số lượng và mật độ dân số thì số dân các làng nghề đánh bắt thủy hải sản miền Đông Nam Bộ trong nhiều thời kỳ lịch sử luôn luôn cao hơn các làng xã khác trong vùng (thậm chí có làng cao hơn cả vùng thị trấn, thị tứ 3-4 lần). Lịch sử hình thành các cộng đồng ngư dân miền Đông Nam Bộ từ nhiều nguồn, vì vậy, mỗi tổ chức cộng đồng ngư dân đều có sự khác nhau trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo... Ngoài ra, không ít những người là nông dân nhưng khi đến sinh sống ở đây đã chọn đánh bắt thuỷ hải sản làm kế sinh nhai. Chính từ đặc điểm địa lý, lịch sử đó, miền Đông Nam Bộ là cửa ngõ tiếp nhận, chuyển tải, giao lưu kinh tế, văn hóa của vùng đất mới Nam Bộ trong quá khứ cũng như hiện tại. Trong quá trình chuyển tải các luồng văn hóa từ bên ngoài vào và bên trong ra, nhiều nét văn hóa đã ngưng động trên vùng đất trung chuyển này. Sự ngưng động đó thể hiện trong văn hóa dân gian nói chung, nhưng nổi bật nhất, dễ nhận thấy nhất và tác động đến tận hôm nay biểu hiện rõ nét qua lễ hội dân gian. Khi tìm hiểu lễ hội dân gian miền Đông Nam Bộ thì lễ hội của ngư dân sống ven biển rất được giới nghiên cứu quan tâm. Vì sự phong phú, đa dạng của các loại hình lễ hội, của nghi thức hành lễ, của đối tượng thờ phụng... Lễ hội của ngư dân miền Đông Nam Bộ ẩn chứa nhiều thông tin sinh động khả dĩ khái quát về những nét đặc trưng văn hóa của một vùng đất. Mặt khác, lễ hội của ngư dân miền Đông Nam Bộ không ...

Tài liệu được xem nhiều: