Có làng mới có nước. Có gia tộc mới có dân tộc. Làng - Nước; Gia tộc - Gia đình là mối dây liên hệ bền chặt trên tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt từ thuở các vua Hùng. Ngôi đình làng đã trở thành biểu tượng của ý thức dân tộc, gạch nối giữa lịch sử và cộng đồng. Mỗi làng Việt Nam đều có một ngôi đình. Đình là nơi thờ thần Thành Hoàng của làng. Thần Thành Hoàng thường là những bậc anh hùng có công dựng nước, giữ nước;...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VẺ ĐẸP ĐIÊU KHẮC, KIẾN TRÚC ĐÌNH LÀNG VIỆT
VẺ ĐẸP ĐIÊU KHẮC, KIẾN
TRÚC ĐÌNH LÀNG VIỆT
đình ĐÌnh Bảng ở Từ Sơn, Bắc Ninh (nửa đầu
tk 18) có kiểu dáng tiêu biểu cho ngôi đình
truyền thống, và chạm khắc rất tài hoa bên
trong
Có làng mới có nước. Có gia tộc mới có dân tộc. Làng - Nước; Gia tộc - Gia đình
là mối dây liên hệ bền chặt trên tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của người
Việt từ thuở các vua Hùng. Ngôi đình làng đã trở thành biểu tượng của ý thức dân
tộc, gạch nối giữa lịch sử và cộng đồng.
Mỗi làng Việt Nam đều có một ngôi đình. Đình là nơi thờ thần Thành Hoàng của
làng. Thần Thành Hoàng thường là những bậc anh hùng có công dựng nước, giữ
nước; hoặc một thần sông, thần núi mang tính huyền thoại nh ư giúp dân trị thuỷ,
trừ khử yêu quái, đem lại cuộc sống yên lành cho mọi người, mọi nhà. Đình vừa là
nhà, vừa là nơi thờ cúng, vừa là nơi hội họp của dân làng, là ngôi nhà công cộng
của mỗi cộng đồng cư dân nông nghiệp làng xã. Mọi tập tục, văn hoá, nếp sống
của làng thường được định ra ở đây, có tên gọi là Hương ước, một thứ luật lệ dưới
luật, nhưng không kém phần nghiêm ngặt với các thành viên của làng.
Kiến trúc đình làng theo kiểu “Vì kèo” có sàn gỗ, hoặc nền đất lát gạch với những
hàng cột lim to khoẻ, vững chãi. Phân bố các gian của đình thường là 3 gian, hoặc
5 gian, tuỳ theo khả năng làng to nhỏ, giàu nghèo. Mái đình lợp ngói có độ dốc
vừa phải. Bốn góc mái thường có đầu đao uốn cong mềm mại vút lên như cánh
chim bay. Hoặc theo kiểu “mái dốc – hai đầu đốc” có hoặc không có cánh gà nhô
lên. Bờ nóc của đình thường được trang trí một dải dài hoa văn chạm nổi hoặc
chạm thủng chạy suốt là hoa chanh, hay hoa thị. Bờ nóc thường đắp đôi rồng chầu
nguyệt (hoặc chầu mặt trời). Tường bao xây bằng gạch trần nung già “da vải”
mạch bắt vữa, hoặc trát vữa (còn gọi là hồ áo), quét vôi trắng. Nhìn gần, ngôi đình
có độ thấp với mái ngói hơi nặng, nhưng nhìn xa lại có vẻ bề thế, thanh thoát bởi
độ cao vừa phải, vừa với tầm kích con người Việt Nam nên nó thân mật, không tạo
khoảng cách xa lạ, hoặc uy hiếp chủ nhân như những giáo đường phương Tây có
gác chuông cao nhọn chọc thẳng lên trời. Trước ngôi đình thường có giếng nước
hoặc hồ nước - ao làng - theo thuyết phong thủy âm dương hoà hợp. Hồ thường
thả sen, hay súng, tới mùa hương hoa toả thơm mát dịu. Nằm trong khuôn viên
kiến trúc còn có tam quan - cổng đình, có mái lợp ngói hoặc là bốn trụ có trang trí
kiến trúc đứng lộ thiên. Góp phần vào vẻ đẹp kiến trúc, còn có những cây cổ thụ -
như đa, muỗm - tỏa bóng mát xuống công trình. Màu trắng của tường vôi, màu
nâu đỏ của ngói hoặc gạch trần, hoặc rêu phong, màu xanh của lá, mặt phẳng
thoáng của nước hồ ao như tấm gương soi lớn phản chiếu cảnh vật, nhân đôi chiều
cao công trình... Tất cả hợp thành hoà sắc bức tranh làng quê thân thuộc, êm đềm,
đầy chất trữ tình:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
“Làng ta phong cảnh hữu tình
Con sông uốn khúc như hình con long
Nhờ trời hạ kế sang đông
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi...”
(Ca dao).
“Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu giấc mơ màng
Hiện lên với bóng cổng làng trong tre” (Bàng Bá Lân. Thi nhân Việt Nam).
Niên đại sớm nhất về ngôi đình làng mà các nhà khảo cổ học lịch sử và nghệ thuật
biết được là vào thế kỷ thứ 16, thời Mạc. Đó là ngôi đình làng Lỗ Hạnh, thuộc
huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, còn ghi rõ năm làm đình “Sùng Khang thứ 10”
(1576, Mạc Mậu Hợp). Trước đó, qua nhiều năm nghiên cứu di tích, các nhà lịch
sử mỹ thuật của Viện Mỹ thuật và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng lịch sử
Việt Nam chưa phát hiện được ngôi đình nào sớm hơn, ngoài một số đồ gốm cổ
Bát Tràng - như Bình thờ, đèn thờ, lư hương có ghi các niên hiệu Diễn Thành,
Hưng Trị, Đoàn Thái, Hồng Ninh... thời Mạc Mậu Hợp. Từ đây, các hoạ tiết trang
trí trên chất liệu gỗ và gốm được xem là những đặc điểm cơ bản, điểm tựa của mỹ
thuật Mạc, làm tư liệu để so sánh, đối chiếu đặng tìm ra những phong cách điêu
khắc trang trí kiến trúc tương đồng trên gỗ ở một số công trình kiến trúc khác. Một
loạt những bộ phận điêu khắc trang trí kiến trúc ngôi đình (chùa) còn sót lại, đã
được liệt kê, tìm ra dấu vết thời Mạc - như Đình Tây Đằng, chùa Bối Khê (Hà Tây
nay thuộc ngoại thành Hà Nội), chùa Cói (Vĩnh Phúc), chùa Bà Tấm (Gia Lâm, Hà
Nội)... là những dẫn chứng cụ thể. Đặc biệt là đồ án trang trí con rồng, con phượng
và một số loại hình văn hoá khác nữa.
Nhưng thật may mắn, ngược bến thời gian, chúng ta còn thấy được ngôi đình làng
sơ khai, nguyên thuỷ còn ghi lại khá rõ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ của nền văn
hoá Đông Sơn (Thanh Hoá) thời các vua Hùng dựng nước, cách ngày nay từ 2300
- 2500 năm về trước. Đó là “ngôi nhà hình thuyền, mái cong có sàn”. Đem so
sánh, ta thấy rất gần với ngôi đình làng mái cong có sàn hiện đại.
Lịch sử còn ghi lại, thế kỷ 16 là thời kỳ mở đầu sự khủng hoảng và suy vong của
chế độ phong kiến Việt Nam. Để giành quyền th ...