Bài “Hoạ sĩ là ai?” của Phan Cẩm Thượng đăng trên báo Thể thao và Văn hoá mới đây, dường như, đã nhận được sự đồng tình của khá nhiều người trong làng mỹ thuật Việt Nam, và khá nhiều người có chút quan tâm, hiểu biết về mỹ thuật Việt Nam. Được cho là đúng. Là dũng cảm.
“Hoạ sĩ là ai?” (Phan Cẩm Thượng) Vẫn như thời bao cấp, họa sĩ là một khái niệm danh dự, hơn là một nghề nghiệp, vì trong phân công lao động hiện tại, nó chẳng nằm trong thang bậc nào. Bạn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về “Hoạ sĩ là ai?
Về “Hoạ sĩ là ai?”
Bài “Hoạ sĩ là ai?” của Phan Cẩm Thượng đăng trên báo Thể thao và
Văn hoá mới đây, dường như, đã nhận được sự đồng tình của khá nhiều
người trong làng mỹ thuật Việt Nam, và khá nhiều người có chút quan
tâm, hiểu biết về mỹ thuật Việt Nam. Được cho là đúng. Là dũng cảm.
“Hoạ sĩ là ai?” (Phan Cẩm Thượng)
Vẫn như thời bao cấp, họa sĩ là một khái niệm danh dự, hơn là một
nghề nghiệp, vì trong phân công lao động hiện tại, nó chẳng nằm trong
thang bậc nào. Bạn làm ở cơ quan nào thì ăn lương theo chức nghiệp
tương đương ở cơ quan đó. Có thầy giáo, giáo sư dạy vẽ và lại còn là
cán bộ mỹ thuật. Những họa sĩ tự do không có lương, không đóng thuế,
cũng như hoàn toàn bỏ tiền tự lo lấy nghề nghiệp của mình, nhưng từ
khi bỏ công chức, thì nhiều người cảm thấy có vẻ là họa sĩ chuyên
nghiệp hơn.
Khái niệm họa sĩ chuyên nghiệp ở Việt Nam được hiểu một cách buồn
cười. Ai học qua trường Mỹ thuật và vẽ thường xuyên thì coi là chuyên
nghiệp. Ai tự học, dù có nổi danh đến mấy vẫn bị đố kỵ và coi là nghiệp
dư. Là họa sĩ mà vẫn sính các danh hiệu giáo sư, tiến sĩ, chủ tịch hội,
thư ký này nọ... Thực chất cho thấy càng nhiều chức vụ, họ càng ít và
càng xa với sáng tác, càng nhiều học vị càng thấy họ mèng hơn. Làm
tròn danh hiệu một họa sĩ thì chí ít phải có tranh để đời. Không có cái
đó, ông ta chỉ là một thường nhân khéo tay hay mắt.
Ở nhiều nước phương Tây, khi nghệ thuật là một hoạt động thường
nhật và đỉnh cao của tinh thần, được gọi là họa sĩ chuyên nghiệp không
dễ gì. Anh ta phải chứng minh, bằng nghề nghiệp của mình đem lại thu
nhập đều hàng tháng, ví dụ 3000 euro, và Nhà nước sẽ tính thuế và số
tiền đó từ 30-40% tùy theo. Như vậy tranh của anh ta mới được đem
đấu giá, được sắp xếp thứ hạng trong xã hội, và được giảm giá nhiều
hàng hóa phục vụ cho nghề nghiệp, và được nhận tài trợ lớn (nếu có
thể). Một họa sĩ chỉ được bày tranh ở một, hai gallery mà thôi. Còn lại
là nghiệp dư không tính đến, như cầu thủ chân đất đá cho vui mắt, mà
không kiếm được đồng nào cả.
Quy luật này, về đại thể, không thể áp dụng cho các nước chậm và
đang phát triển. Nhưng khi các nền văn hóa cần giao lưu, cần cọ xát
thì nó nảy sinh vấn đề. Các họa sĩ Việt Nam có thể bán tranh trong
nước, nhưng khi ra nước ngoài, chủ yếu chỉ được nhìn nhận trên
phương diện trao đổi văn hóa, và với các gallery tầm thấp, chứ không
tài nào có thứ bậc gì trong nghệ thuật phương Tây. Khi mở cửa, văn
hóa nghệ thuật có vẻ là lĩnh vực đi đầu, tạo ra nhiều mối quan hệ song
phương và đa phương, nhưng dần dà, dường như chỉ có thể làm ăn
kinh tế, đôi bên cùng có lợi, còn văn hóa nghệ thuật thì mọi nẻo đường
đi đến sân chơi đỉnh cao đều bị bịt chặt.
Thời bao cấp, Nhà nước thông qua hội đoàn cấp vật liệu, lo trưng bày
triển lãm, sau đó bảo tàng chọn mua. Nghệ sĩ được bao cấp toàn diện
cả về vật chất lẫn tinh thần trong một quy trình khép kín. Khi sự bao
cấp chấm dứt, thói quen này vẫn còn tồn tại. Ở nhiều địa phương, họa
sĩ vẫn chờ đợi được cấp vật liệu thì vẽ, không thì thôi. Ở Hà Nội, có
khá hơn, nhưng không ít họa sĩ chẳng biết vẽ gì, luôn đòi hỏi Hội phải
định hướng sáng tác. Lớp họa sĩ trẻ không qua chiến tranh, nếm trải
chút ít khó khăn cuối thời bao cấp, tỏ ra thờ ơ với những điều mà
những người đi trước quan tâm. Đề tài chiến tranh cách mạng không
mấy thu hút họ. Tự lo học hành, kiếm việc ra trường, rồi tự lo triển
lãm, bán tranh, cũng như tìm kiếm quan hệ với các hoạt động nghệ
thuật ngoài nước. Cái mới tỏ ra quan trọng hơn cái đẹp. Gây sốc để
được chú ý. Theo đuổi những hình thức tân kỳ, và tự coi mình là nghệ
sĩ tiên phong, tất nhiên không tiến đến chỗ tham nhũng. Song cái thời
phấn khởi tranh bán chạy như tôm tươi đã qua, nếu không muốn suy
đồi bởi thương mại hóa, chỉ còn cách lao vào hoặc Pop Art chính trị,
hoặc là Sắp đặt và Trình diễn, và tìm kiếm tài trợ ít ỏi từ các quỹ văn
hóa nước ngoài.
Ở phương Tây, quý nhất là họa sĩ tự học, thứ đến là họa sĩ học từ một
bậc thầy, hạng bét là họa sĩ học tại trường. Picasso nói rằng Trường
Mỹ thuật Paris đã đẽo ra những đôi guốc giống nhau, nhưng không đi
được. Người tự học đáng quý vì họ thực sự có nhu cầu thôi thúc nội tại,
không chờ đến ai dạy mình. Và thầy giỏi dễ dạy ra trò giỏi. Những sinh
viên ra trường lại cần có cơ chế đỡ đầu mới có thể gia nhập hoạt động
nghệ thuật xã hội. Ví dụ hàng năm có 25 họa sĩ tốt nghiệp. Người ta
giao tiền cho năm nhà phê bình, mỗi người phụ trách năm họa sĩ, cho
họ tiền và dạy bảo họ về ý tưởng nghệ thuật. Sau vài năm, thì tổ chức
triển lãm và lọc ra vài người, gọi là có tài năng, đưa vào cơ chế chuyên
nghiệp, bắt đầu từ những thang thấp nhất của hệ giá cả. Số còn lại
đành tìm những công việc khác như quảng cáo, dạy học, trang trí thiết
kế. Tài năng không phát triển theo quy luật nào. Có người bắt đầu vụt
sáng, sau lại lụi nhanh, có người quá lứa mới bộc lộ, vậy vẫn cần theo
dõi để khỏi bỏ sót. Khi họ sáng tác cần có các công ty kinh doanh bảo
trợ, ngược lại nghệ sĩ giúp các công ty giáo dục văn hó ...