Bởi vậy, các nhà lý luận của ta nếu cứ cường điệu và kéo dài nữa cái mâu thuẫn về bản năng trí tuệ một chiều, hô hào những sự xuyềnh xoàng, tươi mát kiểu dân gian một chiều, đem đối lập nó với những phẩm chất to lớn của nền văn học nghệ thuật bác học, là nhầm, là đã tiện dùng một đúc kết cũ kỹ, về thời gian là của đầu thế kỷ, và về không gian là của chủ nghĩa tư bản Âu Mỹ...
Tôi xin nói điều thứ nhất.
...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Về sự tiếp biến văn hóa của nghệ thuật
Về sự tiếp biến văn hóa của nghệ
thuật (*)
Thái Bá Vân
[...]Bởi vậy, các nhà lý luận của ta nếu cứ cường điệu và kéo dài nữa
cái mâu thuẫn về bản năng trí tuệ một chiều, hô hào những sự xuyềnh
xoàng, tươi mát kiểu dân gian một chiều, đem đối lập nó với những
phẩm chất to lớn của nền văn học nghệ thuật bác học, là nhầm, là đã
tiện dùng một đúc kết cũ kỹ, về thời gian là của đầu thế kỷ, và về không
gian là của chủ nghĩa tư bản Âu Mỹ...
Tôi xin nói điều thứ nhất.
Chịu ảnh hưởng của nghệ thuật thế giới không phải là điều xấu. Nó cần
thiết và tất yếu cho sự chung sống hoà bình và tiến bộ của văn hóa. (Dĩ
nhiên ta hiểu khái niệm trong nghĩa tiếp biến văn hóa - acculturation -
tích cực của lịch sử).
Tôi hoan nghênh cách đặt đề tài tham luận của Ban tổ chức, coi như lần
đầu tiên, theo chỗ tôi biết, ta đã tự tin hơn để đặt vấn đề đàng hoàng,
vấn đề sự qua lại không thể không có của khí hậu thế giới trong đời
sống văn hóa của một dân tộc.
Tại cuộc hội nghị Điêu khắc lần thứ nhất, năm 1973, chúng ta đã đặt
vấn đề sít sao và kiểm tra tốt khi nêu khẩu hiệu Tính dân tộc. Nhưng
chúng ta chưa làm được như vậy đối với tính quốc tế của nghệ thuật,
cái tính mà theo đà sống của nhân loại là ngày càng có xu hướng xích
lại gần nhau, tiếp biến vào nhau, xoá những ngăn cách thời gian và
không gian cố định.
Sách, báo và giáo trình nghệ thuật thế giới của chúng ta, mười năm qua
có tiến bộ, nhưng vẫn là quá ít, thô sơ, không thuyết phục và nhiều khi
không đáng tin cậy nữa. Tôi có nhận xét là, cho tới nay, chúng ta đang
tránh những cuộc thảo luận cần thiết và thẳng thắn về sự công bố một
quyển sách hay một giáo trình nào đấy.
Lần này, chúng ta đặt vấn đề xem xét ảnh hưởng quốc tế trong điêu
khắc hiện đại của mình, là một bước tiến về sự làm việc. Tôi nghĩ rằng,
chúng ta đã có đủ tư cách làm chủ và kiểm tra vấn đề đặt ra một cách
sòng phẳng, nếu không bảo là chính xác hơn.
Có điểm, có người, tại cuộc triển lãm lần thứ nhất, 1973, còn nghi ngờ
hoặc ngộ nhận, thì tại cuộc này đã rõ, và đồng ý, không phải bằng lý
luận hay lý sự, mà bằng thực tế sáng tác và thực tế thưởng thức của
công chúng. Tôi không bàn từng chi tiết, từng tác phẩm, mà muốn nói
tới một tình thế, một xu thế chung.
Mặt khác, tôi cũng muốn nói rằng, ta không có quyền đòi hỏi quá
nhiều, khắt khe với một thời gian 10 năm. Trong lịch sử điêu khắc thế
giới, có cả những đoạn 50 năm, hay hơn thế nữa, mà nghệ thuật làm
tượng không đẻ ra được một cử chỉ nào mới, một cái tên nào mới. Có
trường hợp đặc biệt hơn, như nước Anh chẳng hạn, trước khi xuất hiện
Henri Moore của thế kỷ XX, không ai biết đến điêu khắc Anh-cát-lợi là
gì cả, mặc dù ở đây vẫn có hàng trăm ngàn người làm tượng, trong mấy
thế kỷ liền. Biết như thế, cho nên tôi cứ vui mừng và lạc quan về cuộc
triển lãm này của chúng ta, trong khi vẫn đồng ý rằng nó không có giá
trị gì là quá to lớn.
Riêng cái điểm tôi được phân công quan sát: ảnh hưởng của điêu khắc
thế giới ở đây, tôi cũng thẫy dễ chịu, không có gì phải dị ứng. Nhiều tác
giả và tác phẩm của chúng ta đã tiếp thu, hay nói đúng hơn là tiêu hóa
những bài học của điêu khắc thế giới một cách xúc động. Tuy nhiên,
cái nhìn ra thế giới đó, sự tiếp biến văn hóa đó, vẫn chưa rộng và sâu,
mà dừng ở một số ứng xử của hàng chục năm về trước (của điêu khắc
Xô-Viết, của Brơncuxi, của Moro chẳng hạn), nghĩa là còn bỏ sót rất
nhiều những mảnh ý tứ điêu khắc khác, không kém phần căn bản và
hiệu quả, của thông báo thẩm mỹ hiện đại.
Chủ nghĩa Mác không dạy chúng ta, rằng con người là bất bình đẳng,
các giống người là bất bình đẳng. Chủ nghĩa Mác cũng không dạy
chúng ta, rằng loài người nói những thứ tiếng kín mít, tuyệt đôi khác
biệt nhau, không có cách gì thông dịch qua lại với nhau cả.
Trong khi đó thì khoa học dạy chúng ta, rằng thế giới của những quy
ước, tượng trưng, những ký hiệu, mã hiệu, là thế giới chung, gặp nhau
qua những nố lực về trí tuệ, và loài người có thể cùng quan niệm được,
cùng sử dụng được những mẫu số chung nhỏ nhất đó của ngôn ngữ. Đó
là tình trạng chung, từ tâm lý học tới toán học, từ nhạc học tới vật lý
học, từ sử học tới xã hội học, và, phong phú, cô đọng hơn cả, chắc là ở
mỹ thuật chúng ta. (Sự giao tiếp của nhân loại hiện đại bằng con mắt,
bằng sự nhìn, theo số liệu xã hội học là chiếm khoảng 70% mọi giao
tiếp xã hội).
Dĩ nhiên, một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, hay một thầy giáo dạy
lịch sử mỹ thuật, có thể nhặt ra không nhầm những ảnh hưởng thô
thiển, đã nhàm trên một pho tượng nào đó. Chỗ này là của ông A, chỗ
kia là của ông B trên thế giới v v... Nhưng, những kiến thức chuyên biệt
đó, dù đúng, cũng không thể là công lý cuối cùng với người sáng tác và
công chúng thưởng thức. Người sáng tác và công chúng vô tư, hồn
nhiên hơn rất nhiều khi cảm thụ cái đẹp. Thường tình ra, không ai sáng
tác cho các nhà lý luận hay phê bình, người ta sáng tác cho một công
chúng rộng rãi và bản thân mình, thân thiện hơn rất nhiều khi cảm thụ ...