Danh mục

VẾT THƯƠNG, VẾT BỎNG BỊ NHIỄM CHẤT ĐỘC QUÂN SỰ

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 157.46 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (15 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong chiến tranh hiện đại khi sử dụng vũ khí hoá học, có thể gặp các tổn thương hỗn hợp.- Vết thương, vết bỏng bị nhiễm chất độc.- Vết thương, vết bỏng mà cả các vùng da lành và cơ quan hô hấp… đều bị nhiễm chất độc.- Vết thương, vết bỏng không bị nhiễm chất độc, nhưng các bộ phận khác bị nhiễm chất độc.- Chấn thương kín với nhiễm chất độc.Những vết thương, vết bỏng có thể bị nhiễm độc do các mảnh của vũ khí hoá học (lựu đạn, mìn, bom hoá học, vv…) và các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VẾT THƯƠNG, VẾT BỎNG BỊ NHIỄM CHẤT ĐỘC QUÂN SỰ VẾT THƯƠNG, VẾT BỎNG BỊ NHIỄM CHẤT ĐỘC QUÂN SỰI. ĐẠI CƯƠNGTrong chiến tranh hiện đại khi sử dụng vũ khí hoá học, có thể gặp các tổn th ươnghỗn hợp.- Vết thương, vết bỏng bị nhiễm chất độc.- Vết thương, vết bỏng mà cả các vùng da lành và cơ quan hô hấp… đều bị nhiễmchất độc.- Vết thương, vết bỏng không bị nhiễm chất độc, nhưng các bộ phận khác bị nhiễmchất độc.- Chấn thương kín với nhiễm chất độc.Những vết thương, vết bỏng có thể bị nhiễm độc do các mảnh của vũ khí hoá học(lựu đạn, mìn, bom hoá học, vv…) và các mảnh quần áo rách, đất bị thấm chất độcrơi vào. Các chất độc còn có thể thấm qua băng gây nhiễm độc. Tất cả các vếtthương, vết bỏng trong khu vực ô nhiễm do chất độc đều có khả năng bị nhiễmđộc.Chất độc quân sự có hại nhóm chính:1. Nhóm các chất độc gây chết người gồm có:- Chất độc đối với thần kinh: Sarin, Tabun, Soman, chất V.- Chất độc gây toàn thân: axit hydroxyanic, xianogen clorit.- Chất độc gây loét da, niêm mạc: iperit, lewizit.- Chất độc gây ngạt thở: photgen, diphotgen.2. Nhóm các chất độc chỉ ảnh hưởng tạm thời đến sức khoẻ gồm:- Chất gây chảy nước mắt: CS, CN.- Chất gây nôn mửa: adamsit.- Chất độc gây rối loạn tinh thần: BZKhi bị tổn thương hỗn hợp, tình trạng chung của cơ thể (tính phản ứng, khả năngphục hồi, bù trừ...) bị thay đổi, do đó quá trình diễn biến của vết thương, vết bỏng,của cơ thể nhiễm độc cũng thay đổi.Tình trạng vết thương, vết bỏng và diễn biến của vết thương, vết bỏng tuỳ thuộcvào tính chất của từng loại chất độc. Vì thế chúng ta cần biết đặc điểm, diễn biếnvà cách xử trí kỳ đấu các vết thương, vết bỏng bị nhiễm chất độc quân sự.II. DIỄN BIẾN CỦA VẾT THƯƠNG, VẾT BỎNG BỊ NHIỄM CHẤT ĐỘCQUÂN SỰ:Trong chiến tranh, khi kẻ địch dùng chất độc quân sự thì chất độc có thể rơi hoặcbắn vào các vết thương, vết bỏng. Từ đó có 2 loại diễn biến:1. Chất độc ngấm qua vết thương, vết bỏng và vào cơ thể:- ở vết thương:Do da không còn nguyên vẹn để ngăn cản và làm chậm quá trình hấp thụ của chấtđộc, nên các chất này lan nhanh vào các tổ chức ở sâu, rồi ngấm vào cơ thể bằngcác mao mạch.Chất gây độc đối với thần kinh được hấp thụ nhanh nhất, chỉ sau 30 đến 40 phútkể từ khi nhiễm vào vết thương, chất độc đã ngấm hết. Lúc đó tại vết thương, vếtbỏng không còn thấy chất độc nữa. Chỉ có thể tìm thấy được một số vết tích củachất độc ở dịch tiết của vết thương và vết bỏng.Chất độc gây loét da, niêm mạc thì sau 3 giờ là ngấm hết và không thể tìm thấychúng ở dạng tự do nữa.Quá trình hấp thụ sẽ càng nhanh khi chất độc càng dễ hoà tan trong các dung môibéo (mỡ, dầu).Vết thương là một cửa ngõ đã mở sẵn, nên chỉ cần một lượng chất độc rất ít cũnggây nhiễm độc nặng, thậm chí có thể gây tử vong.- ở vết bỏng:Với vết bỏng nông thì chất độc ngấm vào cơ thể nhanh hơn so với da và niêm mạclành.ở vết bỏng sâu: Vì có đám da bị hoại tử, nên chất độc ngấm chậm hơn.2. Chất độc quân sự khi nhiễm vào vết thương, vết bỏng sẽ làm cho các quátrình diễn biến tại chỗ nặng và phức tạp hơn:- Đối với vết thương, vết bỏng thì trạng thái viêm nề thường phát triển rõ rệt từ giờthứ 6 kể từ khi bị thương. Nếu bị chất độc quân sự nhiễm vào vết thương, vết bỏngthì trạng thái viêm nề kể trên sẽ xuất hiện sớm hơn (tuỳ loại chất độc) ; với chấtgây loét da, niêm mạc (leuwisit) thì chỉ 10 - 20 phút sau là đã làm viêm đỏ chungquanh vết thương và phù tấy rõ rệt. Đối với chất iperit thì viêm nề xuất hiện trong2 - 3 giờ đầu sau khi bị thương.- Tại vết thương, vết bỏng bị nhiễm chất độc quân sự thấy có nhiều tổ chức hoại tửvà còn thấy các đám hoại tử thứ phát (xuất hiện muộn hơn). Quá trình rụng các tổchức hoại tử này rất chậm chạp so với các vết thương hoặc vết bỏng đơn thuần.- Thường gặp các biến chứng như nhiễm khuẩn mủ, nhiễm khuẩn kỵ khí, viêm mủkhớp,viêm xương và chảy máu thứ phát. Sức sống của tổ chức vùng bị thương, bọbỏng khi nhiễm chất độc quân sự giảm sút r õ rệt. Tổ chức hạt phát triển xấu vàkém, làm kéo dài quá trình liền sẹo của vết thương, vết bỏng.Đối với các khoang tự nhiên của cơ thể, khi bị chất độc quân sự (loại gây loét)nhiễm vào vết thương, vết bỏng, sẽ bị hoại tử thứ phát các màng bao phủ (màngbụng, màng phổi, màng não, màng tim, màng bao khớp) làm cho thương tổnkhông xuyên thấu trở thành thương tổn xuyên thấu (các màng bao phủ kể trên bịthủng) và gây ra viêm mạc bụng, viêm màng phổi, viêm màng não, viêm màngtim, viêm khớp.III. CHẨN ĐOÁN VẾT THƯƠNG - VẾT BỎNG BỊ NHIỄM CHẤT ĐỘCQUÂN SỰ:Chẩn đoán vết thương, vết bỏng dựa vào tính chất và triệu chứng sau:1. Tính chất:Những triệu chứng của vết thương, vết bỏng bị nhiễm chất độc quân sự có nhữngtính chất sau đây:- Tính chất nhiều người cùngbị thương ở một khu vực hoặc ở cùng một trận địa,có cùng những triệu chứng bệnh lý toàn thân giống nhau (đặc hiệu cho từng loạichất độc quân ...

Tài liệu được xem nhiều: