![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Vị thuốc từ hoa giẻ
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 148.42 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cây hoa giẻ thuộc họ Na với tên gọi khác là nồi côi. Cây mọc hoang trên các đồi cây ven rừng hoặc được trồng làm giàn leo cây cảnh ở các biệt thự. Hoa giẻ luôn thấy xuất hiện trong đĩa hoa cúng trên bàn thờ tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, lễ tết. Nhiều bộ phận của cây giẻ được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Rễ: Thu hái quanh năm, đem về rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô. Dược liệu có vị cay, tính hơi ấm,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vị thuốc từ hoa giẻ Vị thuốc từ hoa giẻCây hoa giẻ thuộc họ Na với tên gọi khác là nồicôi. Cây mọc hoang trên các đồi cây ven rừnghoặc được trồng làm giàn leo cây cảnh ở các biệtthự. Hoa giẻ luôn thấy xuất hiện trong đĩa hoacúng trên bàn thờ tổ tiên vào ngày rằm, mồngmột, lễ tết.Nhiều bộ phận của cây giẻ được dùng làm thuốctrong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian.Rễ: Thu hái quanh năm, đem về rửa sạch, tháimỏng, phơi hay sấy khô. Dược liệu có vị cay,tính hơi ấm, có tác dụng mạnh, tỳ vị, giảm đau,lợi thấp, chữa tê thấp, đau nhức gan xương, chântay tê bại. Thường dùng phối hợp với các vịthuốc khác theo phương thuốc của Hải ThượngLãn Ông (Bách gia chân tàng) như sau: Rễ hoagiẻ, rễ rung rúc, rễ gắm, vỏ thân ngũ gia bì chânchim, rễ bướm bụng, mỗi vị 80g; rễ sấm nam, rễcỏ xước, rễ ô dược, rễ bướu bạc, rễ tầm xuân,tầm gửi, cây dâu, rễ bạch đồng nữ, mỗi vị 40g;rễ chỉ thiên, cả cây roi ngựa, mỗi vị 20g. Tất cảthái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu trắngtrong 1-2 tháng, càng lâu càng tốt. Ngày uống 2lần, mỗi lần một chén nhỏ. Cây hoa giẻ.Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) lại dùng rễ hoagiẻ phối hợp với kim ngân hoa, mỗi vị 30g, sắcvới 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lầntrong ngày để chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa,mụn nhọt.Hoa: Thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹhoặc sấy lửa nhỏ đảm bảo mùi thơm, tính bình,không độc, có tác dụng an thần, trấn tĩnh, chữamất ngủ, ngủ không yên. Khi dùng lấy 8-16ghoa đã khô, cắt nhỏ hãm với nước sôi, uống làm1 lần trước khi đi ngủ. Ngày uống 2-3 lần.Cả cây: Thu hái quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô,dùng riêng hoặc phối hợp với cây bòn bọt, nấunước sắc để chữa bỏng và vết thương lở loét(kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Dao ở tỉnhTuyên Quang). Dựa vào kinh nghiệm này, họcviện quân y đã bào chế từ 2 dược liệu trên dạngcao lỏng lấy tên là cao SH-91, theo cách làm cụthể sau: Cả cây hoa giẻ và cành lá bòn bọt, mỗithứ 5kg, chặt nhỏ, phơi khô cho vào nồi nhôm,đổ ngập nước 1-2 cm, nén nhẹ bằng 1 chiếc vítcho dược liệu không nổi lên, đun sôi trong 3 giờ,chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục đunsôi trong 2 giờ, chắt lấy nước thứ hai. Gộp 2nước sắc lại, cô nhỏ lửa thành cao. Cao có tỷ lệ10/1 (10kg dược liệu thu được 1 lít cao) màunâu nhạt, mùi thơm nhẹ. Đóng chai nút kín, đuntiệt trùng ở 110 độ C trong 1 giờ. Khi dùng, chếcao thành thuốc mỡ gồm cao SH-91 10g, lanolin10g, sáp ong 2g, vaselin vừa đủ 100g. Ngày bôi3-4 lần. Thuốc không gây mẩn đỏ, ít phù nề, tạomàng che phủ tốt, liền sẹo nhanh. Thành phần cótác dụng của thuốc chính là tanin, chất làm sănse, cầm máu, ngừng xuất tiết, tạo màng che phủvà diệt khuẩn trên các vết bỏng nông và saponinlà chất làm giảm sức căng bề mặt chất lỏng, cókhả năng làm tan mủ diệt khuẩn ở các vết bỏngsâu, tạo điều kiện phát triển tổ chức hạt và biểumô.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vị thuốc từ hoa giẻ Vị thuốc từ hoa giẻCây hoa giẻ thuộc họ Na với tên gọi khác là nồicôi. Cây mọc hoang trên các đồi cây ven rừnghoặc được trồng làm giàn leo cây cảnh ở các biệtthự. Hoa giẻ luôn thấy xuất hiện trong đĩa hoacúng trên bàn thờ tổ tiên vào ngày rằm, mồngmột, lễ tết.Nhiều bộ phận của cây giẻ được dùng làm thuốctrong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian.Rễ: Thu hái quanh năm, đem về rửa sạch, tháimỏng, phơi hay sấy khô. Dược liệu có vị cay,tính hơi ấm, có tác dụng mạnh, tỳ vị, giảm đau,lợi thấp, chữa tê thấp, đau nhức gan xương, chântay tê bại. Thường dùng phối hợp với các vịthuốc khác theo phương thuốc của Hải ThượngLãn Ông (Bách gia chân tàng) như sau: Rễ hoagiẻ, rễ rung rúc, rễ gắm, vỏ thân ngũ gia bì chânchim, rễ bướm bụng, mỗi vị 80g; rễ sấm nam, rễcỏ xước, rễ ô dược, rễ bướu bạc, rễ tầm xuân,tầm gửi, cây dâu, rễ bạch đồng nữ, mỗi vị 40g;rễ chỉ thiên, cả cây roi ngựa, mỗi vị 20g. Tất cảthái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu trắngtrong 1-2 tháng, càng lâu càng tốt. Ngày uống 2lần, mỗi lần một chén nhỏ. Cây hoa giẻ.Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) lại dùng rễ hoagiẻ phối hợp với kim ngân hoa, mỗi vị 30g, sắcvới 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lầntrong ngày để chữa ngộ độc nấm, mẩn ngứa,mụn nhọt.Hoa: Thu hái khi mới nở, đem phơi nắng nhẹhoặc sấy lửa nhỏ đảm bảo mùi thơm, tính bình,không độc, có tác dụng an thần, trấn tĩnh, chữamất ngủ, ngủ không yên. Khi dùng lấy 8-16ghoa đã khô, cắt nhỏ hãm với nước sôi, uống làm1 lần trước khi đi ngủ. Ngày uống 2-3 lần.Cả cây: Thu hái quanh năm, chặt nhỏ, phơi khô,dùng riêng hoặc phối hợp với cây bòn bọt, nấunước sắc để chữa bỏng và vết thương lở loét(kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Dao ở tỉnhTuyên Quang). Dựa vào kinh nghiệm này, họcviện quân y đã bào chế từ 2 dược liệu trên dạngcao lỏng lấy tên là cao SH-91, theo cách làm cụthể sau: Cả cây hoa giẻ và cành lá bòn bọt, mỗithứ 5kg, chặt nhỏ, phơi khô cho vào nồi nhôm,đổ ngập nước 1-2 cm, nén nhẹ bằng 1 chiếc vítcho dược liệu không nổi lên, đun sôi trong 3 giờ,chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục đunsôi trong 2 giờ, chắt lấy nước thứ hai. Gộp 2nước sắc lại, cô nhỏ lửa thành cao. Cao có tỷ lệ10/1 (10kg dược liệu thu được 1 lít cao) màunâu nhạt, mùi thơm nhẹ. Đóng chai nút kín, đuntiệt trùng ở 110 độ C trong 1 giờ. Khi dùng, chếcao thành thuốc mỡ gồm cao SH-91 10g, lanolin10g, sáp ong 2g, vaselin vừa đủ 100g. Ngày bôi3-4 lần. Thuốc không gây mẩn đỏ, ít phù nề, tạomàng che phủ tốt, liền sẹo nhanh. Thành phần cótác dụng của thuốc chính là tanin, chất làm sănse, cầm máu, ngừng xuất tiết, tạo màng che phủvà diệt khuẩn trên các vết bỏng nông và saponinlà chất làm giảm sức căng bề mặt chất lỏng, cókhả năng làm tan mủ diệt khuẩn ở các vết bỏngsâu, tạo điều kiện phát triển tổ chức hạt và biểumô.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
y học phổ thông kiến thức sức khoẻ y tế sức khoẻ cách chăm sóc sức khoẻ nghiên cứu y họcTài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 320 0 0 -
5 trang 314 0 0
-
8 trang 270 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 260 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 246 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 237 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 233 0 0 -
13 trang 215 0 0
-
8 trang 213 0 0
-
5 trang 213 0 0